Sau khi tổ chức lại, tính đến năm 2020, đơn vị sự nghiệp công lập ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giảm 4.963 đơn vị; đơn vị trực thuộc chính quyền địa phương giảm 4.860 đơn vị. Số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giảm 7.386 người. Cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập bước đầu thay đổi theo hướng Nhà nước giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu sản phẩm dịch vụ công sử dụng ngân sách nhà nước từ nguồn kinh phí chi thường xuyên theo quy định tại Nghị định số 32/2019/NĐ-CP của Chính phủ. Nhờ đó, các đơn vị phần nào chủ động ký kết với các đơn vị trong và ngoài nước, thực hiện các chính sách hỗ trợ cho đội ngũ viên chức. Các đơn vị sự nghiệp công lập được chủ động hơn trong việc lập kế hoạch, dự toán cũng như triển khai thực hiện các dự án mở rộng cơ sở vật chất và các dự án đầu tư, mua sắm tài sản. Các đơn vị sự nghiệp công lập cũng tăng cường hoạt động dịch vụ để tăng nguồn tài chính phục vụ hoạt động của đơn vị, nhờ đó, nguồn ngân sách nhà nước cấp cho đơn vị sự nghiệp công lập có giảm dần.[1]
Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện chủ trương này cũng còn nhiều vướng mắc, hạn chế như việc sắp xếp, tổ chức lại đơn vị sự nghiệp công lập chưa có sự đồng bộ giữa các ngành, lĩnh vực, giữa trung ương và địa phương, còn nhiều đơn vị sự nghiệp công lập trong cùng một bộ, ngành, lĩnh vực, trên cùng địa bàn, có những nhiệm vụ còn chồng chéo gây lãng phí trong sử dụng cơ sở vật chất, hạ tầng, nhân lực và kinh phí. Việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy các đơn vị sự nghiệp công lập chưa gắn liền với đổi mới cơ chế hoạt động theo hướng tự chủ về tài chính, nguồn thu từ dịch vụ sự nghiệp ít và tăng trưởng chậm, vẫn chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước. Phân bổ kinh phí từ ngân sách nhà nước vẫn chủ yếu theo yếu tố đầu vào và theo biên chế, chưa gắn với đầu ra về số lượng, chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Kiện toàn tổ chức bộ máy gắn với xã hội hóa các dịch vụ sự nghiệp còn hạn chế, tiến độ còn chậm, kết quả đạt được thấp và còn thiếu vững chắc, vẫn còn nhiều đơn vị sự nghiệp công lập sử dụng ngân sách nhà nước hoạt động trong các lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp mà Nhà nước không cần thiết phải nắm giữ. Các đơn vị sự nghiệp công lập đã quen với cơ chế bao cấp từ ngân sách nhà nước trong một thời gian dài nên chưa thể thích nghi ngay với cơ chế tự chủ, chất lượng dịch vụ chưa đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng, còn mang tâm thế ỷ lại, kéo dài việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy và đổi mới hoạt động. Nhiều đơn vị chưa xây dựng được tiêu chuẩn dịch vụ và các tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ sự nghiệp công lập để kiểm định chất lượng cung ứng dịch vụ. Công tác quản trị nội bộ còn yếu kém, hầu hết các đơn vị sự nghiệp công lập chưa thành lập hội đồng quản lý để thực hiện vai trò quản trị đối với đơn vị sự nghiệp công lập.
Quá trình sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy các đơn vị sự nghiệp công lập phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó, có một số yếu tố quan trọng như sau:
Một là, quyết tâm chính trị của Đảng, nhà nước và nhận thức, quyết tâm của đội ngũ lãnh đạo các đơn vị sự nghiệp công lập:
Có thể nói, đây là yếu tố quan trọng hàng đầu, có tính chất chi phối đến rất nhiều yếu tố khác. Các cấp ủy cần quyết tâm và thường xuyên chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, bảo đảm công khai, minh bạch trong quá trình sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ của đơn vị sự nghiệp công lập, gắn việc rà soát, sắp xếp lại tổ chức bộ máy với tinh giản biên chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động.
Việc thực hiện sắp xếp, kiện toàn các đơn vị sự nghiệp công lập sao cho tinh gọn, tránh trùng lặp, chồng chéo, bỏ trống nhiệm vụ, lãng phí tài chính và nhân sự cũng đòi hỏi quyết tâm chính trị của các bộ, ngành chủ quản. Việc sắp xếp này liên quan đến quyền lợi của người lao động, rất nhạy cảm nên nếu không có quyết tâm chính trị cao thì chỉ mang tính đối phó, hình thức. Việc thực hiện chính sách này cũng đòi hỏi nhiều đơn vị sự nghiệp công lập phải dần dần tự chủ tài chính, đây là một thách thức lớn cho một số cơ quan, đơn vị, thực hiện hàng loạt các cải cách nhằm chấn chỉnh, đưa hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập phát triển, đảm bảo đời sống của người lao động nhưng vẫn phải giữ vững được tôn chỉ, mục đích trong hoạt động.
Việc sắp xếp liên quan đến các vấn đề về chức danh lãnh đạo, vị trí việc làm cần một sự tính toán kỹ lưỡng về cách thức và bước đi cụ thể điều này đòi hỏi phải có sự thống nhất ngay trong nhận thức của các cơ quan lãnh đạo quản lý, cơ quan chủ quản, bản thân từng đơn vị sự nghiệp công lập. Bên cạnh đó, khi lãnh đạo cơ quan chủ quản có sự nhìn nhận phù hợp và quan tâm sự nghiệp công lập nhiều hơn đến công tác này thì mới có được chỉ đạo quyết liệt, lựa chọn những phương án sắp xếp, kiện toàn mang tính tổng thể của toàn ngành, lĩnh vực chứ không chỉ manh mún ở phạm vi nội bộ từng đơn vị.
Hai là, sự đồng bộ, phù hợp của hệ thống chủ trương, chính sách, quy định về sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy đơn vị sự nghiệp công lập:
Các định hướng, chủ trương kịp thời của Đảng chính là cơ sở để Nhà nước thể chế hóa thành các quy định cụ thể nhằm triển khai thực hiện sắp xếp, kiện toàn đơn vị sự nghiệp công lập thông qua việc ban hành Kết luận số 37-TB/TW ngày 26 tháng 5 năm 2011 của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công, Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2017 Hội nghị lần thứ năm ban Chấp hành Trung ương Khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 về đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập được ban hành là cơ sở quan trọng để Nhà nước ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật nhằm triển khai thực hiện thời gian qua.
Tuy nhiên, chính sách này có đạt được các mục tiêu đề ra hay không lại phụ thuộc vào chất lượng của các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành. Sự toàn diện, đồng bộ, phù hợp, khả thi của hệ thống quy định trong các văn bản pháp luật về vấn đề này có ảnh hưởng quyết định đến quá trình thực hiện chính sách sắp xếp, kiện toàn đơn vị sự nghiệp công lập, tạo điều kiện cho các đơn vị này tiến hành sắp xếp một cách nhanh chóng, linh hoạt, chủ động, hiệu quả. Vừa qua, Chính phủ ban hành Nghị định số 120/2020/NĐ-CP quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập, Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21 tháng 6 năm 2021 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập … Những văn bản này đã tạo cơ sở pháp lý tương đối đầy đủ cho quá trình sắp xếp, kiện toàn đơn vị sự nghiệp công lập. Tuy nhiên, một số chính sách, quy định chưa được hoàn thiện đầy đủ để tạo cơ chế tốt hơn cho các đơn vị sự nghiệp công lập chủ động, linh hoạt như chính sách đối với đơn vị sự nghiệp công lập có trụ sở đặt tại nước ngoài, đơn vị sự nghiệp theo mô hình doanh nghiệp. Danh mục các đơn vị sự nghiệp sử dụng ngân sách nhà nước vừa mới ban hành kèm theo Nghị định 60/2021/NĐ-CP cũng chưa thực sự rõ ràng, còn một số lĩnh vực quy định khá chung chung, tạo kẽ hở cho việc trì hoãn chuyển đổi cơ chế tài chính sang tự chủ. Các chính sách ưu đãi về tài chính và đầu tư chưa đủ hấp dẫn để thúc đẩy và tạo động lực cho các đơn vị sự nghiệp công lập cổ phần hóa; chưa có hướng dẫn về cơ chế tài chính, quản lý, sử dụng các tài sản cơ sở hạ tầng giao cho doanh nghiệp chuyển đổi từ đơn vị sự nghiệp công lập quản lý, khai thác...
Ba là, năng lực thực hiện việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy đơn vị sự nghiệp công lập:
Việc sắp xếp lại tổ chức, các vị trí việc làm gắn với tăng tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập bị chi phối bởi chính năng lực của các đơn vị sự nghiệp công lập. Thực tế cho thấy, tổ chức bộ máy các đơn vị sự nghiệp công lập nhìn chung còn cồng kềnh, chồng chéo, quản trị nội bộ, quản lý tài chính yếu kém, chất lượng, hiệu quả dịch vụ còn thấp, chi tiêu ngân sách nhà nước cho các đơn vị sự nghiệp công lập còn quá lớn. Chất lượng đội ngũ lãnh đạo, cơ cấu đội ngũ viên chức chưa hợp lý, năng suất lao động thấp. Việc thu hút nhân tài vào làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập còn hạn chế bởi cơ chế, chính sách đãi ngộ.
Năng lực của người đứng đầu các đơn vị sự nghiệp công lập cũng có vai trò quyết định đối với việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy. Tầm nhìn, sự quyết đoán, khách quan của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập quyết định rất lớn đến việc chỉ đạo xây dựng, phê duyệt phương án sắp xếp tổ chức bộ máy và định hướng hoạt động trong tương lai phù hợp, khả thi trước các yêu cầu đặt ra.
Đội ngũ viên chức với số lượng và năng lực bảo đảm cũng là nhân tố quyết định hàng đầu đến công cuộc sắp xếp, kiện toàn đơn vị sự nghiệp công lập. Viên chức phải có đủ trình độ để chủ động, linh hoạt trong thực thi công việc, cung ứng dịch vụ sự nghiệp công chất lượng cao, giúp đơn vị tự chủ tài chính, gia tăng hiệu quả hoạt động, thực hiện thành công những mục tiêu kiện toàn tổ chức bộ máy.
Bốn là, về nhận thức, tâm lý của viên chức, người lao động:
Quá trình sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy ảnh hưởng trực tiếp đến vị trí việc làm, chức vụ, quyền lợi, vì vậy nhận thức, sự sẵn sàng ủng hộ của đội ngũ viên chức có sự ảnh hưởng nhất định đến quá trình sắp xếp. Tuy điều này không có tính chất quyết định như các yếu tố kể trên nhưng nó cũng có thể ảnh hưởng phần nào theo hướng thúc đẩy hoặc gây khó khăn cho quá trình sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy. Việc sắp xếp, kiện toàn sẽ khiến cho một bộ phận viên chức và người lao động phải thay đổi từ nhiệm vụ đến mối quan hệ công tác, gây nên tâm lý so sánh với nhóm ít bị tác động. Chính vì thế, tổ chức, người đứng đầu phải xây dựng phương án một cách minh bạch, phù hợp, lấy công việc làm mục tiêu hàng đầu, có sự thuyết phục, động viên để viên chức, người lao động hiểu và chấp nhận. Viên chức cũng phải chuẩn bị sẵn sàng tâm lý cho việc phải thay đổi nhiệm vụ, phong cách, lề lối làm việc.
Việc xác định lại vị trí việc làm phải gắn với bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho viên chức, người lao động để họ chủ động đáp ứng với yêu cầu mới, cơ cấu tổ chức mới. Mối quan hệ giữa lợi ích của nhà nước, tập thể và cá nhân trong quá trình sắp xếp lại tổ chức cần phải được xử lý một cách hài hòa. Việc sắp xếp lại có thể khiến cho một bộ phận viên chức bị giảm thu nhập, thậm chí bị tinh giản biên chế. Thực tế cho thấy, lĩnh vực chậm chuyển đổi mô hình tổ chức, chậm đổi mới cơ chế quản lý thường có nguyên nhân về lợi ích của cán bộ, viên chức. Đã có trường hợp đơn vị sự nghiệp chuyển đổi mô hình theo hướng tự chủ thì nhiều viên chức bị giảm thu nhập, thậm chí mất dần việc làm, đời sống khó khăn nên thường có tâm lý e ngại, khiến cho quá trình này khó khăn hơn. Vì vậy, sự chuẩn bị tâm lý, động viên, có chính sách phù hợp đối với viên chức, người lao động tự nguyện thôi việc... sẽ tạo thuận lợi cho quá trình sắp xếp lại tổ chức bộ máy.
Năm là, bối cảnh kinh tế - xã hội:
Kinh tế thị trường phát triển vừa tạo điều kiện thúc đẩy cho việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy đơn vị sự nghiệp công lập gắn với tự chủ về tài chính, vừa tạo ra áp lực cho các đơn vị này trong việc đáp ứng nhu cầu đa dạng của người dân và “bán” được sản phẩm dịch vụ của mình. Một số lĩnh vực gắn với nhu cầu cao của thị trường rất thuận lợi trong việc kiện toàn tổ chức, đổi mới hoạt động như y tế, giáo dục, báo chí. Ngược lại, một số lĩnh vực không gắn với nhu cầu của thị trường rất khó khăn trong việc sắp xếp, kiện toàn và đổi mới hoạt động như văn hóa, nghệ thuật biểu diễn, nghiên cứu khoa học xã hội…
Bối cảnh hiện nay cũng khiến các đơn vị sự nghiệp công lập đứng trước sự cạnh tranh mạnh mẽ với khu vực tư. Bên cạnh đó, mặt trái của kinh tế thị trường dẫn đến sự suy giảm đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ viên chức như bác sỹ, nhà giáo, nhà báo… Đi cùng với sự thay đổi về kinh tế là sự thay đổi các giá trị tinh thần, chuẩn mực đạo đức, chủ nghĩa thực dụng cá nhân được đề cao. Dẫn đến nhiều vấn đề trong quá trình sắp xếp lại như việc giữ chân một bộ phận viên chức giỏi không hề dễ dàng, nếu bị ảnh hưởng về quyền lợi họ sẽ sẵn sàng “đầu quân” cho các đơn vị có chức năng tương tự của khu vực tư để có thu nhập tốt hơn.
Ngoài ra, hiện nay trình độ dân trí đã phát triển nên nhu cầu, đòi hỏi của người dân về chất lượng dịch vụ của đơn vị sự nghiệp công lập ngày càng cao. Người dân có trải nghiệm phong phú hơn đối với các dịch vụ do khu vực tư cung cấp nên họ có sự đánh giá khắt khe hơn, do đó sức ép đối với các đơn vị sự nghiệp công lập ngày càng lớn. Tuy nhiên, điều này cũng có khía cạnh tích cực của nó khi các đơn vị sự nghiệp công lập có thể học hỏi cách làm từ phía khu vực tư, có sức ép để đẩy nhanh quá trình sắp xếp, kiện toàn đơn vị, có nhiều ý kiến góp ý, ý tưởng tốt từ phía “khách hàng” để cải thiện hoạt động.
Thời gian tới, để thúc đẩy quá trình sắp xếp, kiện toàn các đơn vị sự nghiệp công lập cần phải quan tâm thực hiện một số giải pháp sau đây:
Một là, Đảng, Nhà nước, đội ngũ người đứng đầu cần có những cam kết chính trị mạnh mẽ đối với việc sắp xếp, kiện toàn các đơn vị sự nghiệp công lập. Người đứng đầu các đơn vị sự nghiệp công lập phải ý thức rõ ràng về sự tất yếu của quá trình sắp xếp, kiện toàn đơn vị sự nghiệp công lập, coi việc tự chủ, tự chịu trách nhiệm là mục tiêu phấn đấu hàng đầu trong quá trình sắp xếp, quán triệt tới toàn thể viên chức, người lao động để sẵn sàng cho quá trình này.
Hai là, Nhà nước cần hoàn thiện hơn nữa cơ chế, chính sách, quy định liên quan. Trước hết là đẩy nhanh việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về vị trí việc làm, về chế độ, chính sách cho đội ngũ viên chức nói chung, chính sách đãi ngộ để thu hút người có trình độ cao nói riêng vào làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập, chính sách khuyến khích, tạo động lực cho các đơn vị sự nghiệp công lập cổ phần hóa, các quy định hướng dẫn về cơ chế tài chính, quản lý, sử dụng tài sản cơ sở hạ tầng giao cho doanh nghiệp chuyển đổi từ đơn vị sự nghiệp công lập quản lý, khai thác… Đổi mới quy định về công tác đánh giá, đo lường chất lượng thực thi công vụ của viên chức theo vị trí việc làm, thông qua chất lượng dịch vụ, lấy sự hài lòng của khách hàng làm căn cứ. Phân định rõ cơ chế tài chính thực hiện nhiệm vụ chính trị do Nhà nước giao với hoạt động kinh doanh dịch vụ của các đơn vị sự nghiệp công lập. Hoàn thiện chế độ kế toán, kiểm toán, cơ chế giám sát, bảo đảm công khai, minh bạch hoạt động tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập. Nghiên cứu áp dụng mô hình quản trị doanh nghiệp đối với các đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; thực hiện kiểm định, đánh giá và xếp hạng các đơn vị sự nghiệp công lập.
Ba là, cải thiện năng lực quản trị nội bộ của đơn vị sự nghiệp công lập, trước hết là năng lực đội ngũ lãnh đạo, quản lý của các đơn vị sự nghiệp công lập. Các cơ quan chủ quản cần quan tâm đến việc bổ nhiệm, tuyển dụng, thậm chí có chính sách tuyển dụng từ khu vực tư vào để có được người đứng đầu các đơn vị sự nghiệp công lập thực sự có năng lực, kinh nghiệm, có tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm. Người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập phải đổi mới phương thức quản trị điều hành đơn vị, xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin và hoàn thiện quy chế tài chính của đơn vị. Năng động trong việc phát triển dịch vụ sự nghiệp, trả lương theo kết quả bảo đảm công bằng, tạo động lực làm việc cho viên chức. Thực hiện tốt hơn các chính sách thu hút, bố trí công việc phù hợp, sử dụng có hiệu quả nhân sự chất lượng cao, nhất là cán bộ trẻ có năng lực và nhiệt huyết cống hiến. Bố trí lại cơ cấu viên chức theo vị trí việc làm phù hợp với chuyên môn, sở trường.
Bốn là, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch trong cung cấp dịch vụ giữa nhà nước và tư nhân, đẩy mạnh thu hút các thành phần kinh tế tham gia phát triển dịch vụ công có sự hướng dẫn và kiểm soát của Nhà nước. Khu vực công cần tập trung tổ chức cung cấp những dịch vụ mà khu vực tư không thể hoặc không muốn đảm nhận do đặc điểm, tính chất của lĩnh vực dịch vụ hoặc do chi phí, đầu tư nguồn lực quá lớn nhưng lợi nhuận không cao, từ đó giảm tỉ trọng, nâng cao hiệu quả chi ngân sách nhà nước và chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách, quy định đã ban hành để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện; động viên, khen thưởng những tập thể, cá nhân làm tốt; đôn đốc, nhắc nhở những nơi làm chưa tốt.
ThS. Phạm Thị Thu Hiền,
Phó Viện trưởng
Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra
[1] PGS.TS Nguyễn Minh Phương (2020), Tổ chức lại đơn vị sự nghiệp công lập – Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Quản lý nhà nước.