Chẳng thế, ngay sau khi đọc bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà 2/9/1945, ngày 23/11- tức hơn 2 tháng sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 64/SL về việc thành lập Ban Thanh tra đặc biệt và nhiệm vụ đầu tiên của Ban là “ nhận các đơn khiếu nại của nhân dân”. Trong sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN ngày nay, công tác tiếp dân, giải quyết KNTC của công dân càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết.
Nhận thức về nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam
Cho đến nay, hầu như chưa có tài liệu văn bản chính thức nào đề cập một cách đầy đủ và sâu sắc nhất về khái niệm nhà nước pháp quyền XHCN mà Việt Nam đang xây dựng, làm toát lên cái nội hàm, cũng như những đặc trưng cơ bản của nó… với tính chất là một Học thuyết chứa trong mình hệ thống quan điểm lý luận định hướng cho việc hoàn thiện nhà nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mỏi mắt tìm kiếm cả trên mạng lẫn trong thư viện, đa phần người ta nói nhiều đến khái niệm về nhà nước pháp quyền. Còn khái niệm đầy đủ về nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN như nhiều người mong muốn, có chăng chỉ dừng lại ở những ý tưởng, suy nghĩ bước đầu. Ngay như trong cuốn Nhà nước pháp quyền XHCN và các định chế xã hội ở nước ta hiện nay của GS-TS Lê Văn Quang và PGS-TS Văn Đức Thanh (NXB Chính trị Quốc gia năm 2006) cũng chưa đưa ra định nghĩa thế nào là nhà nước pháp quyền XHCN.
Lần giở từng trang trong phần nhà nước pháp quyền XHCN của cuốn sách này, ngõ hầu chỉ thấy tác giả xới xáo mấy vấn đề chẳng hạn như: - Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở nước ta là sự kế tục của nhà nước dân chủ nhân dân sau khi chúng ta đã hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc và bước vào xây dựng đất nước theo định hướng XHCN; - Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta với tư cách là một định chế xã hội đặc biệt chỉ thành công khi phát huy cao độ nền dân chủ XHCN.
Hay như cuốn: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân của TS Trần Hậu Thành (NXB lý luận chính trị- năm 2005), cơ bản chỉ nêu ra một số đặc điểm của nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam như sau: - Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; - Các quan hệ xã hội chủ yếu được điều chỉnh bằng pháp luật, bảo đảm nguyên tắc pháp chế XHCN; - Bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của nhà nước; - Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; - Phân cấp rành mạch giữa nhà nước trung ương với chính quyền địa phương và cơ sở....
Gần đây nhất, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới do các tác giả: Nguyễn Văn Yểu, GS-TS Lê Hữu Nghĩa chủ biên.
Cuốn sách đã phân tích về những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: - Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; - Xác định quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; - Hiến pháp và luật pháp giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; - Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời, tăng cường kỷ cương, kỷ luật…
Thật ra, khái niệm nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đã được nhắc đến khá lâu. Ngày 29/11/1991, tại Hội nghị lần thứ 2, Ban chấp hành T. Ư khoá VII, lần đầu tiên khái niệm này được Tổng Bí thư Đỗ Mười đề cập. Tiếp đến, trong Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (năm 2006) của Đảng cũng nêu: “Việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy”.
Sau đó, ngày 19/7/2007, tại phiên khai mạc kỳ họp thứ nhất, QH khoá XII, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã có bài phát biểu, chính thức nêu ra một số nội dung cơ bản về nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Trong đó nhấn mạnh: - Quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công giữa các cơ quan nhà nước để thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp; - Nhà nước quản lý đất nước và xã hội theo pháp luật do Quốc hội ban hành.
Như vậy, vấn đề nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện vẫn là một đề tài khoa học đang trong quá trình nghiên cứu xây dựng. Tuy nhiên, xét ở khía cạnh phát triển của tư duy, thì đây là một sáng tạo của Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường hội nhập toàn diện với quốc tế, trên tinh thần và các nguyên tắc căn bản, ưu việt về nhà nước pháp quyền mà nhiều quốc gia trên thế giới đang triển khai.
Điều dễ nhận thấy là, chúng ta đang xây dựng đất nước theo con đường CNXH và phát triển một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì điều tất yếu và một trong những tiền đề cơ bản của sự nghiệp lớn lao này phải xây dựng cho được một thể chế nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Chỉ khi nào chúng ta xây dựng được bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN trong sạch vững mạnh thì khi đó nhà nước mới thật sự là công cụ pháp lý sắc bén để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; các quyền căn bản của người dân được phát huy cao nhất và các lợi ích hợp pháp của họ cũng theo đó mà được pháp luật tôn trọng, bảo vệ.
Từ những căn cứ nêu trên, trong khuôn khổ bài viết nhỏ hẹp này, xin tạm hiểu rằng: Nhà nước pháp quyền XHCN mà Việt Nam đang quyết tâm xây dựng, về cơ bản cũng chính là nhà nước pháp quyền mà ở đó pháp luật là tối thượng. Ở đó, nhà nước Việt Nam thống nhất quản lý xã hội bằng pháp luật, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Tuy nhiên, xuất phát từ bản chất của nhà nước ta là của dân, do dân và vì dân, nên không giống như nhiều quốc gia khác, nhà nước pháp quyền là quyền lực nhà nước được phân thành ba nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp, độc lập tuyệt đối với nhau (“Tam quyền phân lập”), mà quyền lực nhà nước ở Việt Nam là quyền lực thống nhất thuộc về nhân dân, Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước pháp quyền là của dân, do dân và vì dân. Cố nhiên, bản thân người dân không thể tự mình đứng ra thực hiện quyền lực nhà nước một cách trực tiếp mà họ phải uỷ quyền (giao quyền) cho các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Dù thế nào thì đây vẫn là vấn đề rất mới mẻ. Bản thân mô hình nhà nước pháp quyền cũng chưa được định hình hoàn chỉnh trên thế giới. Chính vì thế yêu cầu đặt ra cho chúng ta ngày càng khó khăn hơn, một mặt vừa phải tiến hành xây dựng, mặt khác vừa phải đúc kết kinh nghiệm từ thực tiễn đề hình thành và phát triển tư duy lý luận về mô hình và khái niệm nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Thực trạng công tác giải quyết KNTC ở Việt Nam hiện nay
Công tác tiếp dân, giải quyết KNTC của công dân là một nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động của bộ máy nhà nước và cả hệ thống chính trị. Quyền KNTC của công dân là một quyền Hiến định. Điều 74 Hiến pháp 1992 ghi rõ: “ Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào…”.
Ngay từ khi mới thành lập nước, ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt và nhiệm vụ đầu tiên của Ban là “nhận các đơn khiếu nại của nhân dân”. Một trong ba nhiệm vụ của Ban thanh tra Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập ngày 28/12/1949, là: “ Thanh tra sự khiếu nại của nhân dân”. Và, trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước từ 1945 tới nay, không lúc nào Đảng và Nhà nước ta xem nhẹ công tác tiếp dân, giải quyết KNTC của công dân.
Có thể nói, trong những năm qua, các ngành, các cấp đã có nhiều cố gắng trong công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư, giải quyết KNTC, đưa ra nhiều giải pháp tích cực nhằm tập trung giải quyết dứt điểm các vụ việc ngay tại địa phương. Báo cáo về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của Chính phủ gần đây cho hay: Tính đến hết tháng 8/ 2010 cả nước phát sinh 112.063 vụ việc khiếu nại, tố cáo, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2009.
Nội dung khiếu nại phần lớn xảy ra trong lĩnh vực đất đai (chiếm 69,9%), khiếu nại các hoạt động tư pháp (14,54%), khiếu nại về nhà ở, đòi nhà cho thuê mượn, nhà thuộc diện cải tạo chiếm (4,66%) và các loại khiếu nại khác chiếm (5,97%).
Các nội dung tố cáo chủ yếu tập trung trong lĩnh vực hành chính (chiếm 94,08%), lĩnh vực tư pháp (chiếm 5%).
Nhìn chung, tình hình khiếu nại, tố cáo 8 tháng đầu năm có xu hướng tăng về số vụ việc, số lượt công dân và số đoàn khiếu nại. Một số trường hợp công dân đi khiếu kiện có thái độ bức xúc, gay gắt. Thanh tra Chính phủ đã thanh tra kết luận giải quyết 50/73 vụ việc Thủ tướng giao và phối hợp với địa phương tiến hành thẩm tra, xác minh, xem xét 200 vụ việc phức tạp, tồn đọng, kéo dài tại các địa phương.
Các bộ ngành, địa phương đã giải quyết 69.698/81.838 vụ việc thuộc thẩm quyền, đạt tỷ lệ 85,2%, tăng 1,27% so với cùng kỳ. Trong đó, 61.002/71.845 vụ việc khiếu nại, đạt tỷ lệ 84,9%; 8.696/9.993 vụ việc tố cáo, đạt 87,02%.
Những kết quả bước đấu này là rất đáng khích lệ, song khách quan đánh giá, bức tranh toàn cảnh về tình hình KNTC của công dân trên phạm vi cả nước vẫn còn nhiều mảng tối, đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu nhiều hơn nữa, trách nhiệm hơn nữa của các cấp chính quyền và toàn thể xã hội.
Nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém trong công tác này cũng được thẳng thắn chỉ rõ như việc phối hợp giải quyết giữa các cơ quan có thẩm quyền chưa được chặt chẽ và thống nhất, công tác tiếp dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo còn nhiều sai sót, tổ chức thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo còn hạn chế.
Nhiều kẽ hở, thiếu đồng bộ, thậm chí chồng chéo, mâu thuẫn nhau của luật pháp cũng là nguyên nhân làm cho tình hình KNTC và công tác tiếp dân, giải quyết KNTC của công dân thêm phức tạp và khó giải quyết. Bên cạnh đó, sự hiểu biết (đặc biệt là kiến thức về pháp luật) của nhiều người dân còn hạn chế, hoặc biết nhưng cố tình khiếu kiện, gây mất trật tự an toàn xã hội.
Một trong những nguyên nhân cơ bản khác dẫn đến tình hình KNTC và công tác giải quyết KNTC hiện nay còn nhiều bức xúc, phức tạp đó là do tình trạng “đùn đẩy trách nhiệm, chuyển đơn lòng vòng” của một bộ phận không nhỏ cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm.
Công tác giải quyết KNTC với định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN
Có thể thấy, công tác giải quyết KNTC có mối quan hệ hết sức mật thiết với việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay. Điều này thể hiện ở mấy khía cạnh sau:
Thứ nhất: Như đã nói ở trên, bản chất của nhà nước pháp quyền là sự “Tối thượng của pháp luật”. Nghĩa là, mọi người dân sống trong xã hội này đều bình đẳng trước pháp luật. Pháp luật là cái quy định chung, cái bắt buộc và có tính ràng buộc, chi phối hành động của mỗi người. Làm tốt và thông qua công tác giải quyết KNTC, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân được pháp luật tôn trọng và bảo đảm, điều này cho thấy, tính thượng tôn của pháp luật đã được thực thi.
Thứ hai: Làm tốt và thông qua công tác giải quyết KNTC, giải quyết kịp thời và chính xác mọi vướng mắc, bức xúc, mâu thuẫn của người dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Rõ ràng, một nhà nước pháp quyền XHCN không thể thiếu tính ổn định về chính trị và trật tự an toàn xã hội. Ổn định để phát triển- một nguyên tắc của Đảng và Nhà nước ta trong xây dựng và phát triển đất nước.
Thứ ba: Thông qua công tác giải quyết KNTC các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước cũng phát huy tối đã vai trò của những người đi tiên phong trong việc phổ biến tuyên truyền và giáo dục chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước tới người dân; giúp họ hiểu và nắm vững các quy định của pháp luật mà tự giác thực hiện. Đó chính là nguyên tắc “mọi người sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” mà một nhà nước pháp quyền XHCN đang rất cần đề cao.
Thứ tư: Thông qua công tác giải quyết KNTC, những sai phạm khuyết điểm của cán bộ, công chức khi thừa hành công vụ được phát hiện và xử lý kịp thời; thậm chí trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan cũng sẽ được làm rõ. Thực tế những năm qua, hàng nghìn cán bộ, công chức đã bị kiểm điểm trách nhiệm, xử lý kỷ luật, thậm chí bị truy cứu trách nhiệm hình sự từ hoạt động giải quyết KNTC của công dân. Một lần nữa nguyên tắc “Pháp luật là tối thượng”, “Pháp luật bất vị thân”, lại được tôn trọng và bảo đảm. Quá trình giải quyết KNTC đang góp phần cùng các cơ quan nhà nước và cả xã hội làm lành mạnh hoá bộ máy các cơ quan nhà nước, nâng cao đạo đức cách mạng, trách nhiệm pháp lý của đội ngũ cán bộ công chức trong thừa hành công vụ.
Thứ năm: Công tác tiếp dân, giải quyết KNTC của công dân, cũng là điều kiện, là một “kênh” quan trọng để các cơ quan báo chí, tổ chức xã hội, tổ chức chính trị-xã hội, bằng cách này hay cách khác, gián tiếp hoặc trực tiếp tham gia và giám sát các hoạt động công vụ của các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước, bảo đảm quyền dân chủ, tính pháp chế XHCN- một trong những tiêu chí cơ bản để xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Thứ sáu: Thông qua công tác giải quyết KNTC đã phát hiện và kiến nghị với Đảng, Nhà nước, cũng như các cơ quan, đơn vị bị thanh tra kịp thời chấn chỉnh công tác quản lý; sửa đổi, bổ sung nhiều cơ chế, chính sách, thậm chí ban hành mới các quy định của pháp luật cho phù hợp với tình hình thực tiễn của cuộc sống. Xét ở khía cạnh khác, công tác giải quyết KNTC cũng giúp các cơ quan nhà nước cải tiến lề lối, tác phong làm việc, giữ gìn kỷ luật, thực hành dân chủ, góp phần củng cố và xây dựng bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả hơn trong điều hành quản lý đất nước, quản lý xã hội. Nói cách khác, công tác giải quyết KNTC không chỉ phát hiện hành vi sai phạm, cán bộ mắc khuyết điểm để xử lý, mà còn giúp các cấp lãnh đạo, các cơ quan bị thanh tra …có được cái nhìn đầy đủ, khách quan và chính xác hơn về những yếu kém trong công tác, kịp thời có những giải pháp chấn chỉnh, uốn nắn cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội.
Hồng Thanh
Viện Khoa học Thanh tra