Kiểm soát quyền lực nhà nước: Phân tích từ một số nguyên tắc tổ chức, hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam    
Cập nhật: 22/05/2023 11:16
Xem lịch sử tin bài

Quyền lực nhà nước (state power) là một trong nhiều dạng quyền lực trong xã hội, thể hiện ở khả năng của nhà nước buộc các chủ thể trong xã hội phải phục tùng chính sách, pháp luật do nhà nước đề ra . Xét về bản chất, quyền lực nhà nước là “quyền lực chính trị được thực hiện bằng nhà nước" , thông qua công cụ là pháp luật do nhà nước ban hành. Chủ thể thực thi quyền lực nhà nước là bộ máy công quyền từ trung ương đến địa phương còn đối tượng bị áp dụng quyền lực nhà nước là tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội.

1. Khái quát về quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước

 

1.1. Quyền lực nhà nước       

 

Để tìm hiểu về quyền lực nhà nước, cần bắt đầu từ khái niệm quyền lực. Quyền lực (power), theo Từ điển Oxford, là “khả năng hoặc năng lực làm một việc nhất định hoặc hành động theo một cách thức nhất định”, hoặc là “năng lực hay khả năng điều khiển hay tác động đến thái độ của người khác hoặc đến diễn biến của một sự việc”.[1] Từ góc độ chính trị - pháp lý, có thể xem quyền lực là khả năng của cá nhân hay tổ chức có thể buộc các cá nhân hay tổ chức khác phải phục tùng ý chí của mình[2].

 

Quyền lực nhà nước (state power) là một trong nhiều dạng quyền lực trong xã hội, thể hiện ở khả năng của nhà nước buộc các chủ thể trong xã hội phải phục tùng chính sách, pháp luật do nhà nước đề ra[3]. Xét về bản chất, quyền lực nhà nước là “quyền lực chính trị được thực hiện bằng nhà nước"[4], thông qua công cụ là pháp luật do nhà nước ban hành. Chủ thể thực thi quyền lực nhà nước là bộ máy công quyền từ trung ương đến địa phương còn đối tượng bị áp dụng quyền lực nhà nước là tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội.

 

Dù vậy, cần thấy rằng, trong xã hội hiện đại, quyền lực nhà nước chỉ là quyền lực phái sinh, có phạm vi hạn chế và bị đặt dưới sự giám sát, kiểm soát của người dân. Đó là bởi trong xã hội hiện đại, nhà nước chỉ là một thiết chế quyền lực công do người dân lập ra, được người dân uỷ thác một số quyền lực để thay mặt họ quản lý xã hội. Để ràng buộc, bảo đảm nhà nước thực thi quyền lực một cách đúng đắn, thông qua Hiến pháp, nhân dân đồng thời xác lập những giới hạn về quyền cùng những nghĩa vụ, trách nhiệm cho nhà nước và cách thức kiểm soát quyền lực nhà nước.

 

 1.2. Kiểm soát quyền lực nhà nước

 

 Theo Từ điển Tiếng Việt, “kiểm soát” có nghĩa là: “Xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định”[5]. Từ một góc độ khác, kiểm soát có nghĩa là: “Đặt trong phạm vi quyền hành của đối tượng nào đó”.[6] Như vậy, bản chất của kiểm soát nói chung, kiểm soát quyền lực nhà nước nói riêng là hành động phòng ngừa, với mục đích để ngăn cản hành vi làm trái, lạm dụng quyền lực.

 

Ở Việt Nam, kiểm soát quyền lực nhà nước thông thường được hiểu là một hệ thống những cơ chế được thực hiện bởi nhà nước và xã hội nhằm giữ cho việc thực thi quyền lực nhà nước đúng mục đích, hiệu quả.[7] Theo nghĩa rộng, kiểm soát quyền lực nhà nước bao gồm cả việc thiết kế, tổ chức, vận hành bộ máy nhà nước và theo dõi, xem xét, đánh giá việc sử dụng/áp dụng quyền lực nhà nước trong thực tiễn, còn theo nghĩa hẹp, đây chỉ là những hoạt động theo dõi, xem xét, đánh giá để ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực nhà nước.[8]

 

Ngày nay, ở hầu hết quốc gia trên thế giới, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước đều được đặc biệt quan tâm, do “quyền lực luôn có xu hướng tha hoá; quyền lực tuyệt đối sẽ tha hoá tuyệt đối” (Lord Acton). Cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước đã được thiết lập trong hiến pháp và pháp luật của tất cả các quốc gia, dù với cách thức và mức độ khác nhau. Về nguyên tắc, phạm vi kiểm soát quyền lực nhà nước cần bao gồm toàn bộ bộ máy và hoạt động quản lý nhà nước, tức là với tất cả các nhánh quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, ở cả cấp trung ương và địa phương; chủ thể thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước không chỉ giới hạn ở bản thân các cơ quan nhà nước (kiểm soát lẫn nhau, kiểm soát bên trong) mà còn bao gồm nhân dân, các đảng chính trị, các tổ chức xã hội (kiểm soát bên ngoài), còn nội dung kiểm soát quyền lực nhà nước không chỉ dừng lại ở phạm vi áp dụng quyền lực mà còn phải xét đến tính hợp hiến, hợp pháp, hợp lý trong việc thực thi quyền lực nhà nước của các chủ thể được giao.[9]

 

 2. Sự phát triển và yêu cầu tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam

 

Kiểm soát quyền lực nhà nước không phải là vấn đề xa lạ ở Việt Nam. Trong thời kỳ phong kiến, các triều đại Việt Nam đã áp dụng nhiều biện pháp để ngăn ngừa sự lạm quyền, tham nhũng của các quan lại. Ví dụ, thời Lê Thánh Tông, triều đình đã thành lập và củng cố Lục khoa và Hiến ty là các cơ quan có chức năng giám sát hoạt động và xử lý những vi phạm của quan lại trong bộ máy chính quyền.[10] Vào thời Nguyễn cũng thành lập một cơ quan đặt tên là Đô sát viện có nhiệm vụ giám sát sự tuân thủ pháp luật của toàn bộ bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương.

 

Ngay sau khi giành được độc lập (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 64 ngày 23/11/1945 thành lập Ban Thanh tra đặc biệt với nhiệm vụ giám sát tất cả công việc và nhân viên của các uỷ ban hành chính và các cơ quan của Chính phủ. Sắc lệnh trao cho Ban Thanh tra đặc biệt những quyền hạn rất rộng để kiểm soát và xử lý những hành vi lạm dụng quyền lực nhà nước, cụ thể như: Nhận đơn khiếu nại của nhân dân; Điều tra, hỏi chứng, xem xét tài liệu, giấy tờ của các uỷ ban hành chính hoặc các cơ quan của Chính phủ cần thiết cho công việc giám sát; Đình chỉ bắt giam bất cứ nhân viên nào trong uỷ ban hành chính hay của Chính phủ đã phạm lỗi trước khi mang ra Hội đồng Chính phủ hay Toà án đặc biệt xét xử.  

 

Hiến pháp năm 1946 đã thiết lập cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước theo cả chiều ngang và chiều dọc. Về chiều ngang, Hiến pháp năm 1946 đã quy định thành lập hệ thống cơ quan nắm giữ ba nhánh quyền lập pháp (Nghị viện nhân dân), hành pháp (Chính phủ), tư pháp (Toà án), đồng thời quy định mối quan hệ theo hướng có sự kiềm chế - đối trọng đến một mức độ nhất định giữa ba cơ quan này (Nghị viện nhân dân có quyền bầu ra Chủ tịch nước và thành lập một Toà án đặc biệt để xét xử Chủ tịch nước về tội phản quốc (Điều thứ 47, Điều thứ 51); Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại các luật đã được Nghị viện thông qua và quyền bổ nhiệm thẩm phán của các toà án (Điều thứ 64)). Về chiều dọc, Hiến pháp 1946 xác lập mối quan hệ giám sát, kiểm soát của chính quyền trung ương với chính quyền địa phương thông qua quy định cơ quan nhà nước cấp dưới phải chịu sự kiểm soát của cơ quan nhà nước cấp trên, giữa Hội đồng nhân dân với Uỷ ban hành chính ở địa phương thông qua quy định Uỷ ban hành chính chịu trách nhiệm đối với cấp trên và đối với Hội đồng nhân dân địa phương mình (Điều thứ 59, Điều thứ 60). Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 1946 cũng gián tiếp thành lập cơ chế kiểm soát quyền lực bên ngoài bộ máy nhà nước thông qua việc ghi nhận chủ quyền của nhân dân; các quyền dân sự, chính trị cơ bản, bao gồm  các quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp (Điều thứ 10); quyền bầu cử, bãi miễn đại biểu dân cử (Điều thứ 17, Điều thứ 18) và quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia (Điều thứ 21).

 

Tuy không kế thừa hoàn toàn cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong Hiến pháp 1946, song các Hiến pháp 1959, 1980 vẫn giữ quy định về kiểm soát của cơ quan lập pháp (Quốc Hội) với các cơ quan hành pháp (Chính phủ) và cơ quan tư pháp (Toà án nhân dân tối cao). Bên cạnh đó, hệ thống Viện kiểm sát nhân dân được thành lập (từ Hiến pháp 1959) với chức năng công tố kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan nhà nước đóng vai trò là một thiết chế mới trong cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước. Đối với cơ chế kiểm soát bên ngoài bộ máy nhà nước, các Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm1980 vẫn giữ nhưng quy định của Hiến pháp năm 1946 về quyền công dân, về các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp), đồng thời bổ sung quy định về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân (từ Hiến pháp năm 1959) và quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các thành viên khác của Mặt trận (từ Hiến pháp năm 1980).

 

Hiến pháp năm 1992, trong lần sửa đổi, bổ sung năm 2001, đã củng cố cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước qua các quy định về sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (khoản 2 Điều 1); quy định về quyền của Quốc hội có thể “bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn" (khoản 7 Điều 84); quy định về quyền của Chủ tịch nước có thể “đề nghị xem xét lại” pháp lệnh mà Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua. Cơ chế kiểm soát quyền lực bên ngoài bộ máy nhà nước cũng được củng cố trong Hiến pháp năm 1992, thể hiện qua việc bổ sung và làm rõ hơn các quy định về giám sát và phản biện xã hội của hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 9, Điều 10) và về các quyền dân sự, chính trị của công dân.

 

Tiếp nối xu thế của Hiến pháp 1992, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung quy định về sự “kiểm soát” (bên cạnh sự phân công, phối hợp) giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, đồng thời bổ sung quy định về hai cơ quan hiến định độc lập (Hội đồng Bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước) và quy định về thành lập một cơ chế bảo vệ Hiến pháp theo luật định, là những thiết chế mới trong cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước. Cơ chế kiểm soát quyền lực bên ngoài bộ máy nhà nước cũng được tiếp tục củng cố, thông qua các quy định nhằm đề cao chủ quyền nhân dân; quy định về hai hình thức nhân dân thực hiện quyền lực là dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp; các quy định mới và được sửa đổi về quyền con người, quyền công dân; quy định mới về vai trò giám sát và phản biện xã hội đối với tổ chức và hoạt động của nhà nước của hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

 

Kề từ khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành đến nay, Quốc hội đã thông qua nhiều đạo luật mới và luật sửa đổi, bổ sung mà có tác dụng củng cố, hoàn thiện các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, tiêu biểu như: Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi); Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi), Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi); Luật Kiểm toán nhà nước (sửa đổi); Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (sửa đổi), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi); Luật Báo chí (sửa đổi), Luật Trưng cầu ý dân, Luật Tiếp cận thông tin; Luật Tổ chức chính quyền địa phương và gần đây nhất, năm 2022, là Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở.

 

Xét chung, đến nay cả hai cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong và bên ngoài bộ máy nhà nước đều đã được hình thành và đang được áp dụng ở Việt Nam. Mặc dù vậy, cả hai cơ chế này đều vẫn còn chưa hoàn thiện, khiến cho hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước trong thực tế còn hạn chế mà biểu hiện rõ nhất là tình trạng tham nhũng vẫn còn phổ biến và phức tạp. Chính vì vậy,  Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra yêu cầu phải đẩy mạnh kiểm soát quyền lực, cụ thể là phải tiếp tục nghiên cứu xây dựng và thực thi có hiệu quả cơ chế kiểm soát quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn, bảo đảm mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, quyền lực phải được ràng buộc bằng trách nhiệm, quyền lực đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền lực càng cao, trách nhiệm càng lớn.

 

3. Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua việc thực hiện một số nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

 

Nhà nước pháp quyền là một phương thức tổ chức, hoạt động của nhà nước dựa trên một số nguyên tắc trong đó bao gồm: thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, và kiểm soát quyền lực của các cơ quan, công chức nhà nước (kiểm soát quyền lực nhà nước). Như vậy, kiểm soát quyền lực nhà nước là một yêu cầu không thể thiếu trong nhà nước pháp quyền và ngược lại, việc xây dựng nhà nước pháp quyền cũng là cách thức   kiểm soát quyền lực nhà nước một cách toàn diện, bền vững nhất.

 

Kể từ đổi mới (1986), công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, song vẫn còn những hạn chế, bất cập, có mặt chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, quản lý và bảo vệ đất nước trong tình hình mới. Quyền lực nhà nước chưa được kiểm soát hiệu quả, cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện.[11] Chính vì vậy, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã thông qua Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 về “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” (sau đây viết tắt là Nghị quyết 27), trong đó xác định 05 quan điểm, một mục tiêu tổng quát, 05 mục tiêu cụ thể đến năm 2030, 03 nội dung trọng tâm và 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp lớn[12]. Trong số những nội dung trọng tâm và nhiệm vụ giải pháp, có vấn đề “Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực” (Vấn đề trọng tâm thứ hai; Nhiệm vụ, giải pháp thứ 8). Bên cạnh đó, Nghị quyết 27 cũng đồng thời khẳng định một số nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà đều có tác dụng với việc kiểm soát quyền lực nhà nước, trong đó bao gồm: Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân;[13] Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp;[14] Bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật;[15]Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân.[16]  

 

3.1. Nguyên tắc “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”

 

Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ, tất cả “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[17]. Tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được hiến định qua các bản Hiến pháp Việt Nam, bao gồm Hiến pháp hiện hành 2013 và đã trở thành một trong những nguyên tắc trong tổ chức và vận hành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 

Qua 35 đổi mới đất nước, quyền làm chủ của Nhân dân ở nước ta liên tục được củng cố và có những bước tiến quan trọng, thể hiện thông qua hoạt động bầu cử, ứng cử; trưng cầu ý dân, bãi miễn đại biểu dân cử; tham gia vào quản lý nhà nước (đóng góp ý kiến; khiếu nại, tố cáo; đối thoại dân chủ; thảo luận, phản biện). Nhà nước đã và đang hoàn thiện các luật như: Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Trưng cầu ý dân, Luật Tiếp cận thông tin, Luật Thực hiện dân chủ cơ sở, v.v..., thông qua đó, quyền làm chủ của Nhân dân tiếp tục được bảo đảm và phát huy hiệu quả hơn trong thực tế.

 

Mặc dù vậy, bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân ở nước ta vẫn còn những hạn chế nhất định, đó là: Thứ nhất, Luật bầu cử còn nhiều bất cập, dẫn đến việc tổ chức bầu cử còn mang nặng tính hình thức. Nhiều trường hợp cử tri lựa chọn “cảm tính”, “ngẫu nhiên” đại biểu cơ quan dân cử, nên sẽ có “tỷ lệ nhất định” đại biểu dân cử không thực sự đủ tài, đủ đức, là người xứng đáng để nhận sự uỷ quyền từ Nhân dân. Cử tri cũng chưa thể thực hiện được quyền hiến định về bãi nhiệm đại biểu dân cử do chưa có cơ chế pháp lý đầy đủ và phù hợp cho việc này. Thứ hai, việc thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và Nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Theo Hiến pháp năm 2013, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện chức năng “giám sát và phản biện xã hội” (Khoản 1, Điều 9), “Tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng, Nhà nước” (khoản 1, Điều 3 Luật Mặt trận Tổ quốc năm 2015). Với những quy định đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trực tiếp thực hiện giám sát, phản biện xã hội và là đầu mối để tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân kiến nghị với Đảng, Nhà nước. Tuy nhiên, hiện tại trách nhiệm giải trình việc tiếp thu ý kiến, kiến nghị hay không tiếp thu ý kiến, kiến nghị chưa được quy định rõ ràng. Bên cạnh đó, do quy định về mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn có một số điểm chưa cụ thể, đã tạo ra những trở ngại với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc giám sát và phản biện xã hội, đặc biệt là việc “nói thẳng, nói thật” đối với các chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

 

Trong bối cảnh trên, Nghị quyết số 27 đã nêu ra các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, bao gồm[18]:

 

- Thể chế hóa đầy đủ và thực hiện đúng đắn, hiệu quả cơ chế Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở. Tổng kết việc thực hiện và nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật theo hướng phát huy tốt hơn các hình thức dân chủ trực tiếp của Nhân dân; có cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của Nhân dân tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, xử lý, giải quyết, phản hồi ý kiến, kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo của Nhân dân.

 

- Ðổi mới cơ chế bầu cử để lựa chọn được những người xứng đáng đại diện cho Nhân dân; nghiên cứu việc bỏ phiếu bầu cử của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài, làm rõ những trường hợp không được bầu cử. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế, đề cao đạo đức xã hội và trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, đấu tranh kiên quyết với những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức; xử lý nghiêm mọi hành vi lợi dụng dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

 

Như vậy, có thể thấy tinh thần của Nghị quyết số 27 là hoàn thiện toàn diện thể chế và thiết chế nhằm bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về Nhân dân; Nhân dân trao quyền cho nhà nước không bị mất quyền; quyền lực nhà nước phải được “nhốt trong lồng thể chế và chính sách”. Điều này đòi hỏi phải tiếp hoàn thiện khung khổ pháp luật có liên quan, trong đó ngoài các Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Trưng cầu ý dân, Luật Tiếp cận thông tin, Luật Thực hiện dân chủ cơ sở đã được ban hành, nhà nước cần nghiên cứu xây dựng thêm các luật khác như: Luật Giám sát, phản biện xã hội và sáng kiến công dân; Luật Biểu tình, Luật về hội, đồng thời ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành và cụ thể hoá các luật đã ban hành, đặc biệt là các Luật Trưng cầu ý dân, Luật Tiếp cận thông tin, Luật thực Thực hiện dân chủ cơ sở, để bảo đảm những luật này được thực hiện trong thực tế.

 

Đối với vấn đề bầu cử, để lựa chọn được những người xứng đáng đại diện cho Nhân dân theo như yêu cầu từ Nghị quyết số 27, cần nghiên cứu xây dựng cơ chế thực hiện vận động tranh cử trong hoạt động bầu đại biểu cơ quan dân cử, nhằm cung cấp đầy đủ thông tin và minh chứng năng lực bản thân làm cơ sở xác đáng cho cử tri lựa chọn chính xác người đại biểu cho quyền và lợi ích của nhân dân.

 

Việc hoàn thiện các thể chế thực hành dân chủ như đã nêu ở trên sẽ cụ thể hoá nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, tạo hành lang pháp lý đầy đủ để Nhân dân thực hành quyền làm chủ của mình một cách thực chất, đầy đủ trong thực tế, qua đó cũng nâng cao khả năng giám sát quyền lực nhà nước của nhân dân. Nói cách khác, đây chính là việc củng cố cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài mà hiện vẫn còn tương đối hình thức ở nước ta. Tuy nhiên, để bảo đảm dân chủ một cách thực chất và sự kiểm soát của nhân dân với quyền lực nhà nước có hiệu quả, việc xây dựng và hoàn thiện các thể chế dân chủ cần phải gắn liền với trình độ văn hoá chính trị và văn hoá pháp lý của Nhân dân nhằm đảm bảo tương thích giữa quyền làm chủ của Nhân dân với năng lực làm chủ của Nhân dân trong thực tế.

 

3.2. Nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”

 

“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” vừa là một nguyên tắc, vừa là một cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước mà đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và được hiến định trong Hiến pháp năm 2013 (khoản 3, Điều 2). Nguyên tắc này tiếp tục được Nghị quyết số 27 tái khẳng định và cụ thể hoá.

 

Việc ghi nhận nguyên tắc trên đánh dấu sự thay đổi mạnh mẽ về tư duy chính trị - pháp lý trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước ở nước ta, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để đẩy mạnh kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước. Trên cơ sở đó, thời gian qua, hệ thống thể chế và thiết chế về việc kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp bước đầu được xây dựng và hoàn thiện, từng bước ngăn chặn sự tuỳ tiện trong việc sử dụng quyền lực nhà nước, đẩy lùi hiện tượng “tha hoá” quyền lực nhà nước, bảo vệ quyền lực của nhân dân. Về mặt khoa học, kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp chính là cấu phần cơ bản của cơ chế kiểm soát bên trong bộ máy nhà nước. Vì vậy, sự ra đời của nguyên tắc này đã củng cố đáng kể cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

 

Mặc dù vậy, trong thực tế, việc thực hiện nguyên tắc quan trọng này vẫn còn những tồn tại, hạn chế đó là: Phân công, phối hợp giữa cơ quan nhà nước trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp có lúc chưa nhịp nhàng, dẫn đến làm giảm hoạt động của các cơ quan này. Đặc biệt, cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp vẫn còn thiếu và yếu, hiệu lực, hiệu quả vận hành cơ chế này trong thực tế chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Về cơ bản, cơ chế này hiện nay chưa đủ cơ sở để kiểm soát quyền lập pháp, đặc biệt kiểm soát của hành pháp, tư pháp đối với lập pháp. Cơ chế kiểm soát quyền hành pháp và quyền tư pháp cũng chưa hiệu quả, thể hiện qua tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn diễn biến phức tạp trong khu vực hành pháp, trong khi tình trạng oan sai vẫn còn xảy ra khá nhiều trong hoạt động tư pháp.

 

Trong bối cảnh trên, Nghị quyết số 27 đã nêu ra nhiều nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để bảo đảm thực nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Xét từ góc độ kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng được nêu ra trong Nghị quyết số 27 bao gồm[19]:

 

- Hoàn thiện cơ chế thực thi quyền lực nhà nước, xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của mỗi cơ quan và mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực bên trong mỗi cơ quan và giữa các cơ quan nhà nước, giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương và giữa các cơ quan trong cùng một cấp chính quyền. Quy định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành pháp trong kiểm soát các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền tư pháp; của cơ quan tư pháp trong kiểm soát các cơ quan thực hiện quyền hành pháp, quyền lập pháp. Mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, phải được ràng buộc bằng trách nhiệm, quyền lực đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền lực càng cao trách nhiệm càng lớn; lạm dụng, lợi dụng quyền lực phải bị truy cứu trách nhiệm và xử lý. Kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức.

 

- Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả các cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước của Ðảng, Nhà nước và Nhân dân; thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ, trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch trong từng cơ quan nhà nước.

 

Như vậy, có thể thấy tinh thần của Nghị quyết số 27 là hoàn thiện toàn diện thể chế và thiết chế kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Điều này đòi hỏi phải tiếp hoàn thiện nhiều văn bản pháp luật, trong đó bao gồm Luật Tổ chức Quốc Hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân... và nhiều luật khác. Bên cạnh đó, cũng cần tiếp tục nghiên cứu thành lập các thiết chế quan trọng để kiểm soát quyền lực của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, ví dụ như cơ quan bảo hiến, cơ quan quốc gia về quyền con người, hội đồng tư pháp quốc gia…

 

 3.3. Nguyên tắc bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật

 

Hiến pháp là đạo luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật của quốc gia. Hiến pháp xác định chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quy định các nguyên tắc chủ yếu về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và ghi nhận các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân. Ở mỗi quốc gia, Hiến pháp là thiêng liêng, bất khả xâm phạm và việc bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật luôn là nhiệm vụ hàng đầu, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với việc kiểm soát quyền lực nhà nước.

 

Ở nước ta hiện nay đã hình thành cơ chế bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, thể hiện rõ nét thông qua hoạt động giám sát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL). Bên cạnh đó, nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật cũng đã được giao cho Quốc Hội và các tất cả các cơ quan nhà nước. Dù vậy, cơ chế bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật ở nước ta về cơ bản không mang tính chất tài phán chủ yếu được thực hiện thông qua các hoạt động giám sát, kiểm tra và tự kiểm tra của các chủ thể có thẩm quyền. Thẩm quyền bảo đảm thượng tôn Hiến pháp được giao cho nhiều chủ thể khác nhau, nhưng chưa có sự phân định trách nhiệm rõ ràng, thiếu một cơ quan chuyên trách. Trong thực tế, cơ chế bảo đảm thượng tôn Hiến pháp chưa được hiến định đầy đủ, cụ thể. Hiến pháp năm 2013 quy định nhiều vấn đề “do luật định”, nhưng đến nay, còn một số nội dung chưa được luật định, nên thiếu cơ sở pháp lý để xác định hành vi vi hiến. Hậu quả là khi giải quyết vụ việc cụ thể, khi khởi kiện hoặc khiếu nại, người dân khó có thể dẫn chiếu Hiến pháp để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Thêm vào đó, pháp luật cũng chưa có những quy định hữu hiệu để giám sát hoạt động lập pháp của Quốc hội nhằm đảm bảo hoạt động này luôn phù hợp Hiến pháp. Hoạt động giải thích Hiến pháp được giao cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội nhưng hầu như chưa được thực hiện. Do chế bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật hiện hành chủ yếu dựa vào việc thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội, nên chưa tách bạch giữa giám sát tính hợp hiến, giám sát tính hợp pháp của văn bản và hành vi của các cơ quan, cá nhân mà Hiến pháp trao quyền. Ngoài ra, do Hiến pháp hiện hành thiếu quy định về áp dụng trực tiếp Hiến pháp nên chưa có cơ sở pháp lý rõ ràng cho việc xác định vi hiến không hành động.

 

Trong bối cảnh trên, Nghị quyết số 27 đã nêu ra một số nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để bảo đảm thực nguyên tắc “thượng tôn Hiến pháp và pháp luật”, đó là[20]: Xây dựng ý thức và lối sống thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong hệ thống chính trị và toàn xã hội; đưa nội dung phù hợp về Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng của hệ thống giáo dục quốc dân. Nâng cao ý thức trách nhiệm, năng lực của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong thực thi Hiến pháp, pháp luật. Cụ thể hóa và xây dựng cơ chế để các chủ thể thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp.

 

Để thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp nêu trên của Nghị quyết số 27, cần thiết nghiên cứu thành lập cơ quan bảo vệ hiến pháp theo hướng là một thiết chế độc lập, chuyên trách. Trong thực tế, đã có một số mô hình cơ quan bảo vệ hiến pháp được đề xuất, trong đó bao gồm: Hội đồng Hiến pháp theo mô hình của Pháp, Toà án Hiến pháp theo mô hình của nhiều nước châu Âu; Toà án Nhân dân tối cao kiêm chức năng bảo vệ hiến pháp; Quốc Hội thành lập Uỷ ban bảo vệ hiến pháp. Mỗi mô hình đều có những ưu, nhược điểm và có những thuận lợi, khó khăn nhất định trong việc thành lập và vận hành. Tuy nhiên, xét đến nguyên tắc phổ biến của các thiết chế bảo hiến đó là tính độc lập và chuyên trách, mô hình Hội đồng Hiến pháp có vẻ phù hợp nhất ở nước ta hiện nay. Mô hình này bảo đảm tính độc lập vì không trực thuộc cơ quan nào trong bộ máy nhà nước (bước đầu có thể là thiết chế luật định, sau đó khi sửa Hiến pháp sẽ nâng thành thiết chế hiến định). Mô hình này cũng bảo đảm tính chuyên môn vì có thể huy động sự tham gia của nhiều chuyên gia. Cuối cùng, để bảo đảm tính chính trị, mô hình này có thể bao gồm các thành viên là đại diện của các thiết chế chủ chốt trong hệ thống chính trị của nước ta (các cơ quan của Đảng, các cơ quan của Nhà nước, Mặt trận tổ quốc Việt Nam), do một lãnh đạo Đảng đứng đầu.

 

Việc thành lập cơ quan bảo hiến độc lập, chuyên trách sẽ thể hiện một bước tiến quan trọng không chỉ về tư duy lập hiến mà còn về tư duy pháp quyền và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Nó mở ra một khả năng mới, bổ sung một cơ chế mới trong việc bảo vệ hiệu quả tính tối thượng của Hiến pháp, khắc phục hạn chế, bất cập của mô hình dựa chủ yếu vào Quốc hội giám sát sự tuân thủ Hiến pháp hiện nay ở nước ta. Việc áp dụng mô hình này không trái với nguyên tắc Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội, cũng như với nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Việc thành lập cơ quan này vẫn bảo đảm vị trí, vai trò của Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước về đối nội và đối ngoại; Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất; Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân là các cơ quan tư pháp.

 

3.4. Nguyên tắc “Tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm hiệu quả quyền con người, quyền công dân”

 

Quyền con người và nhà nước pháp quyền có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đó là hai mặt trong một chỉnh thế thống nhất: quyền con người vừa là đặc trưng, thể hiện bản chất của nhà nước pháp quyền, còn nhà nước pháp quyền giữ vai trò là công cụ/thiết chế quan trọng nhất trong việc bảo đảm quyền con người. Quyền con người cũng gắn liền với vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước. Sẽ không thể kiểm soát hiệu quả quyền lực nhà nước nếu như các quyền con người không được tôn trọng và bảo vệ. Ngược lại, khi các quyền con người được tôn trọng, bảo vệ đầy đủ, người dân sẽ có khả năng giám sát quyền lực nhà nước một cách hiệu quả.

 

Ở nước ta, Nhà nước từ lâu đã rất quan tâm đến việc bảo vệ, bảo đảm quyền con người. Vì vậy, trong thực tế, các quyền con người, quyền công dân ở nước ta được bảo vệ, bảo đảm ngày càng tốt hơn. Dù vậy, trong thực tế vẫn còn những hạn chế nhất định trong vấn đề này, xét cả về phương diện pháp luật và thực thi pháp luật.

 

Trong bối cảnh trên, Nghị quyết số 27 đã nêu ra một số nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để bảo đảm thực nguyên tắc “Tôn trọng, bảo vệ , bảo đảm hiệu quả quyền con người, quyền công dân”, đó là[21]: Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa kịp thời, đầy đủ quan điểm, chủ trương của Ðảng và quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; nội luật hóa các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia; xác định rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Thực hiện tốt nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm; quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân, việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia - dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

 

Để thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp nêu trên của Nghị quyết số 27, cần thiết nghiên cứu hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, kể cả một số quy định của Hiến pháp năm 2013, cụ thể như sau:

 

- Rà soát, sửa đổi, bổ sung quy định về quyền con người vào một số đạo luật hiện hành hoặc luật mới về quyền con người. Xây dựng một đạo luật về chống phân biệt đối xử, xây dựng luật biểu tình, luật về hội, luật chuyền giới, xây dựng luật hoặc quy định, kế hoạch hành động quốc gia về trách nhiệm tôn trọng quyền con người trong kinh doanh; sửa đổi các bộ luật hiện hành để đảm bảo hài hoà với chuẩn mực quốc tế về quyền con người.

 

  4. Kết luận

 

Quyền lực là công cụ không thể thiếu để nhà nước quản lý xã hội, song cũng rất dễ bị cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước lạm dụng, lợi dụng để tham nhũng hoặc để xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp cuả người dân và doanh nghiệp. Vì thế, luôn phải đặt quyền lực nhà nước vào vòng kiểm soát và luôn cần phải tìm ra những cách thức để bảo đảm và nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước.

 

Có một số nguyên tắc đóng vai trò là những định hướng chỉ đạo cho tổ chức, hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó bao gồm: (i)Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân; (ii) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; (iii) Bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; (iv)Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân. Xét tổng quát, tất cả những nguyên tắc này đều có ý nghĩa quan trọng trong kiểm soát quyền lực nhà nước, trong đó nguyên tắc (ii) có ý nghĩa trực tiếp. Việc thực hiện tốt những nguyên tắc này không chỉ bảo đảm hiệu lực, hiệu quả  trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước mà còn giúp ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực của các cơ quan, công chức nhà nước.

 

Tất cả các nguyên tắc nêu trên đã được ghi nhận trong Hiến pháp và nhiều luật chuyên ngành của nước ta nhưng hiện vẫn còn một số khoảng trống và quy định chưa thực sự hợp lý. Điều này đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện khung khổ pháp luật về những nguyên tắc này trong thời gian tới để không chỉ nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, mà còn giúp tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta.

 

Thuận lợi lớn cho công việc quan trọng kể trên đó là: Tất cả các nguyên tắc đã nêu đều đã được ghi nhận trong nhiều văn kiện của Đảng, được hiến định trong Hiến pháp 2013 và mới đây đã được tái khẳng định và cụ thể hoá trong Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 về “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”. Nói cách khác, đã có cơ sở  chính trị, pháp lý vững chắc cho việc tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp luật về những nguyên tắc kể trên. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, hoàn thiện khung khổ pháp luật về những nguyên tắc nêu trên sẽ cần sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản pháp luật, trong đó bao gồm cả Hiến pháp năm 2013. Vì vậy, đây cần được xem là một công việc lâu dài, đòi hỏi quyết tâm cao và sự tham gia của cả hệ thống chinh trị của nước ta./.

 
 
PGS.TS Vũ Công Giao
Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội
"Bài viết có sử dụng nội dung tham luận hội thảo Đề tài khoa học độc lập cấp quốc gia “Kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam”, mã số ĐTĐL.XH-05/21"


[1] Nguyên văn “The ability or capacity to do something or act in a particular way”, “the capacity or ability to direct or influence the behaviour of others or the course of events”. Xem tại https://en.oxforddictionaries.com/definition/power

[2] Nguyễn Minh Đoan (2015), Báo cáo khoa học đề tài cấp Bộ: Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Bộ Tư pháp (đã nghiệm thu chính thức), tr.5

[3] Xem thêm định nghĩa tương tự trong Nguyễn Minh Đoan (2015), tài liệu đã dẫn, tr.5

[4]  Bình luận khoa học Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996, tr.290.

[5]  Trung tâm Từ điển học, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2013, tr.674.

[6]  Trung tâm Từ điển học, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2013, tr.674.

[7] Về vấn đề này, xem Trịnh Thị Xuyến (2008), Kiểm soát quyền lực nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[8] Nguyễn Minh Đoan, Vũ Thu Hạnh (2014), “Quan niệm về kiểm soát và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật.

[9] Về vấn đề này, xem thêm Nguyễn Minh Đoan và Trần Ngọc Đường, tài liệu đã dẫn.

[10] Xem Phạm Thị Duyên Thảo, Kiểm soát và hạn chế quyền lực nhà nước thời Lê Thánh Tông - những giá trị hiện đại, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 18(322), 2016, tr.19-29

[11] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới, tại https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-nghi-quyet-27-nq-tw-tiep-tuc-xay-dung-va-hoan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-119221126114455251.htm

[12] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), tài liệu đã dẫn.

[13] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), tài liệu đã dẫn, Mục II (1) – Quan điểm.

[14] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), tài liệu đã dẫn, Mục II (2)– Quan điểm.

[15] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), tài liệu đã dẫn, Mục II (3)– Quan điểm.

[16] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), tài liệu đã dẫn, Mục III (1.1)– Mục tiêu, trọng tâm.

[17] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.698

[18] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), tài liệu đã dẫn, Mục IV (2)– Nhiệm vụ, giải pháp

[19] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), tài liệu đã dẫn, Mục IV (8)– Nhiệm vụ, giải pháp

[20] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), tài liệu đã dẫn, Mục IV (2)– Nhiệm vụ, giải pháp

[21] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), tài liệu đã dẫn, Mục IV (2)– Nhiệm vụ, giải pháp

 
Tổng số lượt truy cập

2982788

Membership Thành viên:
Latest New User Latest: nguyen sigiao
Hôm nay Hôm nay: 0
Hôm qua Hôm qua: 0
User Count Overall: 6
People Online People Online:
Online Online: 22
Members Thành viên: 0
Tổng cộng Tổng số: 22
Tổng cộng
Online Now Online: