Quy tắc đạo đức nghề nghiệp trong phòng, chống tham nhũng ở cộng hòa Pháp    
Cập nhật: 12/08/2020 03:25
Xem lịch sử tin bài

Tham nhũng gây nên những thiệt hại lớn lao: Quỹ Tiền tệ quốc tế đã tính rằng nếu kiềm chế được tham nhũng thì các quốc gia phát triển sẽ tăng thêm được 4,5% thu nhập quốc dân; các nước đang phát triển sẽ có thêm 3-4% tổng thu nhập quốc dân. Tham nhũng có thể xảy ra ở tất cả mọi nơi, nhưng khu vực công và người công chức – nơi và người trực tiếp thực thi quyền hạn nhà nước - có nhiều rủi ro và cơ hội tham nhũng hơn cả.

Bởi vậy từ lâu việc đấu tranh phòng chống tham nhũng trong hoạt động công vụ đã trở thành yêu cầu hàng đầu. Cũng xuất phát từ tính chất công việc của khu vực tư – nơi mà việc phục vụ nhân dân vừa là bổn phận và danh dự, thì bên cạnh các đạo luật ghi nhận các chế tài nghiêm khắc đối với hành vi tham nhũng, việc sử dụng các quy tắc đạo đức nghề nghiệp cũng có ý nghĩa rất lớn trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở khu vực công. Bài viết sau đây giới thiệu tóm tắt về nội dung quy chế đạo đức công vụ cũng như sự thực hành của nó ở Pháp, cùng một số biện pháp phòng, chống tham nhũng trong hoạt động công vụ ở quốc gia này.

 

1. Quy tắc đạo đức nghề nghiệp của công chức

 

1.1. Lịch sử:

 

Là một thuật ngữ angloxason, cho đến nay Quy tắc đạo đức nghề nghiệp (Deontology) được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghề nghiệp và ám chỉ tất cả các bổn phận phải tuân thủ trong quá trình thực hành nghề nghiệp.

 

Christian Vigouroux đã phân biệt giữa quy tắc ứng xử với đạo đức và đạo lý. Đạo đức bao gồm các quy tắc điều chỉnh hành vi trong một cộng đồng hoặc thành viên của nó, tự thân đưa ra và được chấp nhận như một sự dẫn chiếu, trong khi đó thì quy tắc ứng xử chỉ là khái niệm tồn tại trên phương diện nghề nghiệp. Đạo đức mang tính cá nhân, là khuyến cáo sự khôn ngoan trong xử sự, trong khi đó quy tắc đạo đức nghề nghiệp lại mang tính tập thể - tức là bao gồm cả các thành viên trong tổ chức nghề nghiệp - và có tính chỉ định những nghĩa vụ[1].

 

Lịch sử Pháp cho thấy sự hình thành của quy tắc ứng xử đạo đức công vụ. Năm 1254, sắc lệnh của Saint Louis về "cải cách chính quyền và cảnh sát vương quốc" đã đề ra nguyên tắc liêm chính bằng cách yêu cầu các quan chức công quyền thề "rằng họ sẽ không tự mình hoặc người thân của mình nhận: vàng, tiền, lợi ích gián tiếp hay bất cứ thứ gì khác ngoại trừ trái cây, bánh mì hoặc rượu có giá trị không vượt quá mười xu”. Sắc lệnh cũng yêu cầu các quan chức phải vô tư trong việc ra quyết định mà không phân biệt người giàu hay người nghèo[2].

 

Về mặt khoa học, khái niệm Quy tắc đạo đức nghề nghiệp (Deontology) được đặt ra từ 1823 bởi Jeremy Bentham trên cơ sở tổng hợp các quy phạm hay ý tưởng rải rác về nghĩa vụ bổn phận của quan chức. Theo Christian Vigouroux, quy tắc đạo đức là một vấn đề liên quan đến hoạt động và nghề nghiệp.

 

Tuy nhiên khái niệm Quy tắc đạo đức ứng xử không được dùng trong pháp luật sau đó, do rất khó để diễn đạt hàm nghĩa của từ này, dẫu rằng trong các quy chế công chức đều nói đến những nghĩa vụ ứng xử nhất định – thay vào đó luật thường dùng các thuật ngữ như tinh thần trách nhiệm cao (le sentiment des hauts devoirs); hoặc nghĩa vụ, bổn phận của công chức (les obligations)  trong đạo luật ngày 13 tháng 7 năm 1983.

 

Trong án lệ hành chính, khái niệm này cũng chưa rõ ràng kể cả khi xét xử về các yếu tố cấu thành vi phạm các nghĩa vụ đạo đức. Nhưng Toà hành chính đã đưa ra nguyên tắc phẩm hạnh (principe de dignité) và dần dà làm sáng tỏ các nội dung của nguyên tắc, ví dụ như phạm vi (trong hay ngoài giờ hành chính), đối tượng (người thực tập, người đã rời khỏi khu vực công).v.v.

 

Các văn bản pháp luật về sau đã bổ sung thêm các khái niệm như nguyên tắc vô tư, nguyên tắc liêm chính, nguyên tắc trung thực, nguyên tắc đạo đức, phi tôn giáo; nghĩa vụ bảo lưu .v.v. trong thi hành công vụ.

 

Ý tưởng về xác lập đạo đức công vụ rất phát triển từ thời Tướng de Gaule, người mong muốn cải cách nền hành chính Pháp sau Thế chiến 2, trong bối cảnh dân chúng đang có ấn tượng rất không tốt về nền hành chính dưới thời Vichy. Và như vậy đã ra đời Sắc lệnh ngày 09/10/1945 - nói về việc xây dựng đội ngũ công chức có “tinh thần trách nhiệm cao trong nền công vụ”. Tiếp sau đó có rất nhiều đạo luật điều chỉnh về địa vị pháp lý của công chức, trong đó có nói đến các nghĩa vụ như: không vụ lợi; không kiêm nhiệm chức vụ với một hoạt động ở khu vực tư; quyền tiên quyết nghề nghiệp và “đạo đức tốt” trong đó nổi bật là đạo luật ngày 11/10/ 2013 và 20/4 2016

 

Tuy nhiên điều chỉnh pháp luật đầu tiên về quy tắc ứng xử chỉ xuất hiện ở vài lĩnh vực:

 

Lĩnh vực y tế: những đạo luật về quyền của người bệnh – điều chỉnh các nghĩa vụ như chống lại việc nhận quà biếu; quy tắc minh bạch giữa người hành nghề y và các bên cung ứng thuốc, vật tư.v.v, cũng từ đó đã xuất hiện khái niệm xung đột lợi ích.

 

- Lĩnh vực an ninh trật tự công cộng: Sắc lệnh ngày 18 tháng 3 năm 1986 đã ban hành bộ quy tắc ứng xử của lực lượng cảnh sát quốc gia với các nghĩa vụ như: trung thực, liêm chính, vô tư.v.v. và yêu cầu các công chức cảnh sát phải có hành xử mẫu mực trước công chúng. Cảnh sát địa phương cũng có bộ quy tắc ứng xử, ban hành năm 2009.

 

Để bảo đảm sự thực thi, các bộ luật quy định về việc thông tin về hành xử của cảnh sát, cũng như khả năng được báo cáo cho thanh tra về các vi phạm này. Các vi phạm sẽ bị trừng trị một cách nghiêm khắc đến mực theo Phó chủ tịch tham chính viện Pháp những quy định này có tính nghiêm khắc  “bậc nhất nếu so sánh với các nước khác”[3]. Tuy nhiên rất ít hình phạt được áp dụng trong thực tế.  Nguyên nhân có thể đến từ việc trước đó Uỷ ban về quy tắc ứng xử đã xử lý trước các vụ việc vi phạm, nhưng cũng có thể từ những khó khăn trong diễn dịch các quy định của pháp luật[4] .

 

 Luật ngày 11/10/ 2013 về minh bạch trong hoạt động công vụ quy định rằng các đại biểu dân cử phải thực hiện chức trách của mình với phẩm hạnh, trung thực và liêm chính. Cũng đạo luật này quy định nghĩa vụ phải công khai tài sản của các quan chức cấp cao như: các địa biểu dân cử, các viên chức chính phủ, các công chức cao cấp. Đạo luật cũng đưa ra khái niệm về xung đột lợi ích trong lĩnh vực công cũng như các biện pháp phòng ngừa.

 

Luật ngày 20/4/2016 liên quan đến quy tắc nghề nghiệp và các quyền, nghĩa vụ của công chức đã quy định rằng các công chức phải thực hiện công việc với phẩm hạnh, vô tư, liêm chính và trung thực.

 

Cũng trong đạo luật này, lần đầu tiên xuất hiện định nghĩa pháp lý về quy tắc ứng xử nghề nghiệp, những biện pháp phòng ngừa xung đột lợi ích và kê khai tài sản đối với công chức cấp cao.

 

1.2. Nội dung:

 

Luật về quy tắc đạo đức trong ứng xử công vụ đã quy định các giá trị cần tuân thủ trong công vụ. Công chức thực thi công vụ phải dựa trên: phẩm hạnh; sự vô tư; sự liêm chính, sự trung thực. Luật cũng quy định nghĩa vụ công chức phải trung lập trong thực thi công vụ.

 

Luật cũng yêu cầu công chức phải tôn trọng nguyên tắc phi tôn giáo, tức là trong quá trình thi hành công vụ không được bày tỏ chính kiến cá nhân về tôn giáo. Công chức phải đối xử với tất cả mọi người, đặc biệt là người sử dụng dịch vụ công một cách bình đẳng; tôn trọng tự do ý chí và nhân phẩm của cá nhân.

 

Điểm mới trong đạo luật là đã bổ sung nguyên tắc liêm chính vào bộ quy tắc đạo đức ứng xử công vụ - điều này được tiếp thu từ Đạo luật số 2013-97 ngày 11/10/2013 về minh bạch hoá hoạt động công vụ.

 

Hiểu rằng các nguyên tắc ứng xử là khá chung nên luật đã quy định rằng người đứng đầu đơn vị có quyền cụ thể hoá – trên cơ sở ý kiến của các đại diện người lao động trong đơn vị - các nguyên  tắc ứng xử áp dụng cho các nhân viên dưới quyền mình, một cách phù hợp nhất với tính chất công việc của đơn vị[5].

 

Việc không tuân thủ các quy tắc ứng xử sẽ dẫn đến chế tài hình sự hoặc kỷ luật.

 

1.3. Cơ chế thực thi:

 

Các đạo luật 2016 cũng tăng cường hiệu quả của cơ chế để bảo đảm quy tắc ứng xử thong qua việc trao cho Uỷ ban đạo đức công vụ có quyền xem xét tất cả các vấn đề liên quan đến nghĩa vụ chung của công chức, về xung đột lợi ích, về kiêm nhiệm công việc ngoài.

 

2. Xung đột lợi ích

 

2.1. Khái niệm

 

Có thể định nghĩa xung đột lợi ích là tình huống trong đó một người làm việc ở lĩnh vực công hay tư nhưng lại có lợi ích có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện công việc và trách nhiệm của họ tại cơ quan, tổ chức đó.

 

Theo tác giả Armos Durosier. “xung đột lợi ích có nghĩa là việc tìm kiếm những lợi ích cho bản thân công chức, gia đình, hay những người thân của họ, từ các tổ chức mà anh ta có quan hệ công việc hay chính trị. Lợi ích được hiểu bao gồm các nghĩa vụ tài chính hay dân sự của công chức đó, lợi ích có thể hiện diện dưới hình thức kinh tế, chính trị, công việc hay tình dục”[6].

 

Xung đột lợi ích có quan hệ chặt chẽ với tham nhũng. Dẫu là khu vực tư hay công thì một công chức có thể tìm cách hưởng lợi một cách trực tiếp hay gián tiếp từ địa vị mà anh ta có được. Bởi vậy dự liệu về xung đột lợi ích là một phần của công cuộc đấu tranh chống tham nhũng – dẫu rằng đôi khi có sự khác biệt giữa tình thế xung đột lợi ích với các hành vi tham nhũng. “Phần lớn các hình thức tham nhũng đều hình thành từ việc có những xung đột giữa trách nhiệm nghề nghiệp của một con người với các lợi ích cá nhân của anh ta”[7].

 

Cũng bởi sự không trùng khớp hoàn toàn này mà đến gần đây, pháp luật ở Pháp điều chỉnh xung đột lợi ích như là một quy tắc đạo đức công vụ.

 

Luật 2016 đã nhấn mạnh vấn đề xung đột lợi ích và đặt nó thành quy tắc ứng xử của công chức - bằng vệc đưa bổ sung điều 25 - về nghĩa vụ của công chức phải báo trước về tình huống xung đột lợi ích hoặc phải chấm dứt ngay tình huống này.

 

Theo Luật 2016 thì xung đột lợi ích được định nghĩa như “bất kỳ sự giao thoa nào giữa một lợi ích công với một lợi ích công khác hoặc lợi ích tư, mà khả dĩ làm ảnh hưởng hoặc có thể làm ảnh hưởng đế sự độc lập, vô tư và khách quan trong việc thực thi công vụ”.

 

Các biện pháp ngừa xung đột lợi ích

 

Luật quy định về nghĩa vụ của các công chức hành xử khi đối mặt với tình trạng xung đột lợi ích. Bất kỳ công chức hành chính hay quân sự nào cũng phải dừng ngay hoặc báo trước cho cấp có thẩm quyền biết về những tình huống xung đột lợi ích mà anh ta rơi vào, ví dụ như việc xử lý hồ sơ hoặc khi là thành viên của hội đồng có thẩm quyền nào đó. Hơn nữa một số công chức cấp cao (do Tham chính viện quy định cụ thể các đối tượng) còn phải chịu nghĩa vụ kê khai tất cả những lợi ích của mình có (đồng thời với kê khai tài sản) trong khoảng thời gian 2 tháng sau khi được bổ nhiệm và vào lúc kết thúc hoạt động. Cơ quan có thẩm quyền kiểm tra các kê khai này là Cơ quan tối cao về minh bạch hoá hoạt động công.

 

Mục đích của quy định này là phòng ngừa các nghi ngại về sự thiên vị có thể đến trong quá trình ra quyết định.

 

Cụ thể hơn, các cách hành xử trong trường hợp công chức phát hiện ra mình trong tình huống xung đột lợi ích được định rõ như sau:

  • Trong trường hợp công chức đặt dưới sự lãnh đạo của thủ trưởng trực tiếp thì công chức đó phải báo cáo ngay cho thủ trưởng; người thủ trưởng này phải bàn giao ngay việc xử lý hồ sơ hay soạn thảo quyết định cho người khác;
  • Trong trường hợp công chức được uỷ quyền ký quyết định thì phải tự mình dừng ngay việc ký quyết định đó;
  • Trong trường hợp công chức tham gia vào một hội đồng thì phải ngững ngay việc tham gia; hoặc nếu đã tham gia thì không được biểu quyết;
  • Trường hợp công chức đang thực hiện một chức năng tố tụng thì phải được thay thế theo các quy định của luật tố tụng;
  • Trường hợp công chức đang thực thi công vụ của mình, người này phải được thay thế bởi bất kỳ công chức nào khác mà không chịu sự chỉ đạo của công chức đang ở trong tình huống xung đột lợi ích

 

Bên cạnh các quy định chung, cũng có những quy định đặc thù đặt ra các quy tắc ứng xử cho nhóm nghề nghiệp riêng biệt như thẩm phán hành chính, thẩm phán ngân sách.

 

2.3. Bảo vệ người tố giác xung đột lợi ích.

 

Những quy định bảo vệ cho người tố giác tội phạm cũng được mở rộng đến trường hợp xung đột lợi ích. Những công chức với thiện tâm đã tố giác về trường hợp xung đột lợi ích - sẽ không bị trừng phạt, cũng không bị phân biệt đối xử trong sự nghiệp. Luật quy định việc bảo vệ họ cũng như cả gia đình họ khi tố giác về xung đột lợi ích. Tuy nhiên trong trường hợp tố giác sai có chủ đích về xung đột lợi ích thì người công chức chịu chế tài hình sự.

 

Mặt khác người bị tố giác là người có nghĩa vụ chứng minh không có xung đột lợi ích chứ không phải là người tố giác.

 

2.4. Quy định về không kiêm nhiệm và về việc chuyển đổi công tác sang khu vực tư

 

Với mục đích đảm bảo tính vô tư, liêm chính trong công vụ, Luật Sapin đồng thời ghi nhận việc không kiêm nhiệm: các công chức không được thực hiện toàn thời gian một công việc như quản lý điều hành doanh nghiệp; sáng lập hay tiếp quản một công ty đã đăng ký trong sổ đăng ký giao dịch hoặc thư mục giao dịch. Việc thực hiện bán thời gian trong sáng lập hay tiếp quản doanh nghiệp cũng không được phép. Nếu công chức mong muốn làm bán thời gian đối với các hoạt động này thì phải phải có sự cho phép của Uỷ ban quy tắc ứng xử công vụ trong thời hạn tối đa là 2 năm dựa trên sự ảnh hưởng hay không của hoạt động nghề nghiệp đó đối với dịch vụ công.

 

Sự giám sát của Uỷ ban về quy tắc ứng xử công vụ trong trường hợp công chức chuyển đổi sang làm việc ở khu vực tư cũng được tăng cường. Uỷ ban phải được tham gia trong trường hợp công chức sang hẳn hay tạm thời ở một doanh nghiệp tự nhân, một tổ chức tư hay thực hiện hoạt động tự do. Uỷ ban sẽ kiểm tra sự phù hợp của các hành vi sắp thực hiện với các hoạt động trước đay thực thi bởi công chức trong cơ quan hành chính, và được mở rộng ra trong việc tuân thủ các quy tắc ứng xử nghề nghiệp.

 

Luật 2016 cũng cấm trường hợp một công chức đã sang làm việc theo hợp đồng dân sự với tư cách lãnh đạo của tổ chức công hay tư có thể được hưởng lợi từ ngân sách công, và sau này khi quay trở lại khu vực công thì không được hưởng bất kỳ một đãi ngộ nào khác ngoài việc hưởng lương trong kỳ nghỉ.

 

Uỷ ban đạo đức công vụ được triệu tập theo yêu cầu của công chức hoặc cơ quan hành chính. Tuy nhiên trong trường hợp không có yêu cầu thì Uỷ ban cũng tự động họp trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày tuyển dụng công chức hoặc ngày thành lập doanh nghiệp tư.

 

Liên quan đến tương tác giữa công chức và khu vực tư, ý kiến của Uỷ ban là bắt buộc trong 3 tình huống sau:

  • Công chức chuyển san g làm việc ở khu vực tư;
  • Công chức có nguyện vọng làm việc kiêm nhiệm ở khu vực tư;
  • Một nghiên cứu viên ở khu vực công tham gia vào việc sáng lập doanh nghiệp liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu của mình; hay tham gia khoa học vào một doanh nghiệp; hoặc tham gia vào hội đồng quản trị hay Ban kiểm soát của doanh nghiệp.

 

Uỷ ban sẽ đánh giá xem liệu hành vi mà công chức thực hiện có những rủi ro sau đây hay không:

 

 i) có dẫn đến việc thoả thuận hay làm nghi ngờ đến hoạt động bình thường, đến tính độc lập hay trung lập của công vụ hay không;

 

ii) có vi phạm bất kỳ nguyên tắc đạo đức công vụ nào được chỉ rõ trong Luật 1983 (sau này bổ sung bằng luật 2916) hay không;

iii) người công chức có trong tình huống vi phạm quy định tại Điều 432-13 của Bộ luật hình sự - về xung đột lợi ích hay không;

 

Uỷ ban không phải cơ quan tài phán, tuy nhiên, ý kiến của Uỷ ban có giá trị cao trong công vụ. Sự không tuân thủ các ý kiến của Uỷ ban dẫn đến các chế tài như:

  • Khi công chức không tuân thủ ý kiến chấp thuận có điều kiện của Uỷ ban, hoặc ý kiến phản đối của Uỷ ban, công chức sẽ chịu chế tài kỷ luật;
  • Khi công chức đã nghỉ hưu mà không tuân thủ ý kiến chấp thuận có điều kiện của Uỷ ban, hoặc ý kiến phản đối của Uỷ ban, công chức đó sẽ bị giữ lại khoản lương hưu đến 20% trong vòng 3 năm kể từ sau khi công chức đó rời nhiệm sở;
  • Khi công chức ở trong chế độ hợp đồng làm việc thì việc không tuân thủ ý kiến chấp thuận có điều kiện của Uỷ ban, hoặc ý kiến phản đối của Uỷ ban sẽ dẫn đến việc ngay lập tức chấm dứt hợp đồng – kể từ ngày nhận được ý kiến của Uỷ ban, mà không cần báo trước và không được đền bù về việc chấm dứt hợp đồng. 

 

Trên thực tế thì hoạt động của Uỷ ban cũng chưa thực sự hiệu quả. Nhân sự của Uỷ ban chỉ có 5 cộng tác viên thường trực, trong khi đó, hàng năm, Uỷ ban nhận được hàng ngàn yêu cầu (4.300 yêu cầu năm 2017). Bởi vậy theo ý kiến một số chuyên gia thì cần chuyển đổi Uỷ ban sang quy chế của một Cơ quan hành chính độc lập; hoặc có thể sáp nhập như một bộ phận riêng nằm trong Cơ quan tối cáo về minh bạch hoá hoạt động hành chính[8].

 

Cũng như vậy, các nghị sĩ Fabien Matras et Olivier Marleix cho rằng vẫn còn rất nhiều điều phải làm để tăng cường văn hoá công vụ và đặc biệt cần quy định rõ ràng hơn về việc chuyển đổi từ khu vực công sang khu vực tư.

 

Các tác giả cho rằng dù Luật 2016 đã quy định việc chuyển ra khu vực ngoài nhà nước phải có ý kiến của Uỷ ban quy tắc ứng xử, nhưng trên thực tế thì các vụ việc mà trong đó Uỷ ban được triệu tập và không đồng thuận là rất ít ỏi[9]. Do đó, theo các tác giả, cần tăng cường tính hiệu quả trong hoạt động giám sát này bằng biện pháp công khai thường xuyên các ý kiến của Uỷ ban; các công chức từ khu vực công muốn ra ngoài làm việc có dự báo trước cần phải bồi hoàn một khoản tiền, bù đắp lại chi phí đào tạo. Ngay ở Pháp, các tác giả cũng cho rằng cách tính toán khoản tiền này còn chưa rõ ràng, kém hiệu quả, cần phải xem lại và có sự theo dõi về những khoản bồi thường này[10].

 

3. Một số giải pháp khác phòng, chống tham nhũng trong công vụ

 

3.1. Tăng cường các chế tài trừng trị hành vi tham nhũng

 

Tham nhũng là bệnh rất dễ lây nên cần chống rất triệt để. Qua điều tra ở Pháp cho thấy rằng, nếu càng phổ biến thì tham nhũng sẽ tồn tại càng lâu dài. “Một người chức trách trong tổ chức công quyền sẽ dễ dàng chấp nhận quà biếu nếu như tất cả mọi người xung quanh đều chấp nhận như vậy”[11].

 

Các chế tài áp dụng cho hành vi của công chức là hết sức khắc nghiệt. Ví dụ: Tham nhũng thụ động và tạo ảnh hưởng sẽ bị phạt từ 10 năm tù và 1 000 000 euro tiền phạt; Sử dụng các lợi ích bất hợp pháp – bị phạt 5 năm tù giam và 500 000 euro.

 

3.2. Tập trung vào giáo dục để phòng ngừa tham nhũng

 

Phổ biến và giáo dục cũng là con đường quan trọng để nâng cao nhận thức, thực hành tốt các quy tắc ứng xử. Theo Phó Chủ tịch Tham chính viện. Jean-Marc Sauvé, “văn hoá ứng xử không phải là bẩm sinh, nó chỉ có thể hình thành trên cơ sở ý thức cá nhân của mỗi công chức”. Các học giả cũng quan sát rằng, công chức biết rất rõ các nguyên tắc chung của ứng xử, nhưng đôi lúc gặp khó khăn tìm ra cách hành động cụ thể trong các hoạt động ngày thường”.

 

Về thiết chế, Pháp có một cơ quan có tên là Cơ quan trung ương về phòng ngừa tham nhũng là tổ chức liên bộ được đặt trực thuộc Bộ Tư pháp (Service central de prévention de la corruption).

 

Cơ quan này có mục tiêu đầu tiên là tập trung vào phòng ngừa tham nhũng. Phòng ngừa được coi là biện pháp hữu hiệu trong cuộc chiến chống tham nhũng, thông qua việc cảnh tỉnh cho các công chức biết về tham nhũng, những hậu quả của tham nhũng, trang bị cho họ các quy tắc ứng xử. Việc đào tạo có trọng điểm, nhắm đến các ngành nghề thường xuyên tiếp xúc với tội phạm như cảnh sát, hải quan, quản giáo, nơi mà công chức thường xuyên bị gài bẫy ngầm và bị lôi kéo đến việc câu kết với tội phạm. Các cơ quan giáo dục tham nhũng ở Pháp gần đây tăng cường hợp tác với các cơ sở đào tạo những viên chức kể trên và gần đây hợp tác với cả Trường đào tạo thẩm phán.

 

3.3. Tiến hành các nghiên cứu và đề xuất giải pháp chống tham nhũng

 

Theo ông Francois Badie, Giám đốc cơ quan trung ương về phòng ngừa tham nhũng (Service central de prévention de la corruption) thì trước tiên cần phân tích tiến trình của tham nhũng để tìm ra những bất cập đã dẫn đến các hành vi sai trái. Ví dụ: phân tích trường hợp một nhân viên tư pháp của thành phố gần Lille đã cấp các giấy khai sinh phục vụ cho việc làm căn cước giả, người ta có thể đưa ra khuyến nghị về việc phân chia công việc giữa hai công chức khác nhau: một người chuyên tiếp nhận đơn yêu cầu, người kia giao trả kết quả[12].

 

3.4. Hoàn thiện khung pháp lý về phòng chống tham nhũng trong thi hành công vụ

 

Ngay cả ở Pháp, nơi mà hành lang pháp lý về phòng chống tham nhũng đã tương đối chặt chẽ vẫn có những kiến nghị về việc hoàn thiện pháp luật. Ví dụ, theo ông Francois Badie, người đứng đầu cơ quan trung ương về phòng, chống tham nhũng ở Pháp, cần sửa Điều 40 của Bộ luật Tố tụng hình sự, theo đó "bất kỳ cơ quan có thẩm quyền nào, bất kỳ công chức nào, khi thực hiện các hoạt động của mình, nếu biết về tội phạm hoặc hành vi phạm tội phải thông báo kịp thời cho công tố viên và kèm theo đó tất cả thông tin, biên bản và các hành vi vi phạm đó ". Tuy nhiên, nghĩa vụ này không đi kèm theo chế tài xử phạt nếu nó không được tôn trọng. Các nhà thực hành cho rằng cần phải quy định một tội danh về việc không tiết lộ các vi phạm tham nhũng trong công vụ.

 

PGS.TS. Nguyễn Hoàng Anh

Khoa Luật ĐHQGHN



[1] L’ENA, La déontologie dans la fonction publique

[2] L’Assemblée Nationale, le 31 janvier 2018, Rapprot d’information, déposé par la Commission des lois constitutionnelles, de la Législation et de l’Administration générale de la République, En conclusion des travaux d’une mission d’information sur la déontologie des fonctionnaires et l’encadrement des conflits d’intérêts et présenté par MM. Fabien Matras et Olivier Marleix, http://www.assemblee-nationale.fr/15/rap-info/i0611.asp

[3] L’Assemblée Nationale, le 31 janvier 2018, Rapprot d’information, déposé par la Commission des lois constitutionnelles, de la Législation et de l’Administration générale de la République, En conclusion des travaux d’une mission d’information sur la déontologie des fonctionnaires et l’encadrement des conflits d’intérêts et présenté par MM. Fabien Matras et Olivier Marleix, http://www.assemblee-nationale.fr/15/rap-info/i0611.asp

[5] L’Assemblée Nationale, le 31 janvier 2018, Rapprot d’information, déposé par la Commission des lois constitutionnelles, de la Législation et de l’Administration générale de la République, En conclusion des travaux d’une mission d’information sur la déontologie des fonctionnaires et l’encadrement des conflits d’intérêts et présenté par MM. Fabien Matras et Olivier Marleix, http://www.assemblee-nationale.fr/15/rap-info/i0611.asp

[6] Armos Durosier, Conflit d’interet, comportement ethique pour la bonne gouvernance, http://www.oas.org/juridico/pdfs/mesicic4_hti_sc_amos.pdf

[7] Liên Hợp quốc, Bộ công cụ phòng chống tham nhũng, trích theo Armos Durosier trong http://www.oas.org/juridico/pdfs/mesicic4_hti_sc_amos.pdf

[8] L’Assemblée Nationale, le 31 janvier 2018, Rapprot d’information, déposé par la Commission des lois constitutionnelles, de la Législation et de l’Administration générale de la République, En conclusion des travaux d’une mission d’information sur la déontologie des fonctionnaires et l’encadrement des conflits d’intérêts et présenté par MM. Fabien Matras et Olivier Marleix, http://www.assemblee-nationale.fr/15/rap-info/i0611.asp

[9] L’Assemblée Nationale, le 31 janvier 2018, Rapprot d’information, déposé par la Commission des lois constitutionnelles, de la Législation et de l’Administration générale de la République, En conclusion des travaux d’une mission d’information sur la déontologie des fonctionnaires et l’encadrement des conflits d’intérêts et présenté par MM. Fabien Matras et Olivier Marleix, http://www.assemblee-nationale.fr/15/rap-info/i0611.asp

[10] https://www.vie-publique.fr/actualite/alaune/fonction-publique-renforcer-culture-deontologie.html?xtor=EPR-56

[11] Diminuer la corruption augmente les recettes fiscales

Par LEXPRESS.fr avec AFP ,https://www.lexpress.fr/actualite/societe/diminuer-la-corruption-augmente-les-recettes-fiscales_2071227.html

 

[12] Fonction publique: comment mieux lutter contre la corruption?

Propos recueillis par Anne Vidalie et François Koch, 9/10/2012, https://www.lexpress.fr/actualite/societe/enquete/fonction-publique-comment-mieux-lutter-contre-la-corruption_1177031.html

 

Tổng số lượt truy cập

2982788

Membership Thành viên:
Latest New User Latest: nguyen sigiao
Hôm nay Hôm nay: 0
Hôm qua Hôm qua: 0
User Count Overall: 6
People Online People Online:
Online Online: 22
Members Thành viên: 0
Tổng cộng Tổng số: 22
Tổng cộng
Online Now Online: