1. Khái niệm và thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước
1.1. Khái niệm cơ quan hành chính nhà nước
Bộ máy nhà nước có thể được hiểu gồm ba loại cơ quan là:
1. Các cơ quan quyền lực nhà nước, trong đó bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
2. Các cơ quan hành chính nhà nước bao gồm Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp. Các cơ quan thuộc nhóm này tuỳ từng trường hợp, có thể được gọi là các cơ quan quản lý nhà nước (theo nghĩa hẹp) hoặc cơ quan hành pháp hoặc cả hai…
3. Hệ thống cơ quan xét xử Toà án và Hệ thống cơ quan Viện kiểm sát.
Bên cạnh các hệ thống cơ quan nhà nước trên, trong bộ máy Nhà nước Việt Nam còn có cơ quan Chủ tịch nước.
Theo một cách phân loại khác, bộ máy nhà nước được chia thành ba hệ thống cơ quan theo ba chức năng là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo đó, cơ quan hành pháp là Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp.
Dù phân loại các cơ quan nhà nước thế nào thì vẫn đi đến sự thừa nhận chung là Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp trong bộ máy nhà nước của nước ta là hệ thống cơ quan hành chính hay quản lý nhà nước, hành pháp…
1.2. Thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước
Bất cứ một cơ quan nhà nước nào khi nhắc đến thì dấu hiệu cần được làm rõ chính là chức năng được xác định là gì, hay nói cách khác là các cơ quan sử dụng quyền lực nhà nước
được giao thẩm quyền nào để thực hiện chức năng của mình. Vậy thẩm quyền hiểu theo nghĩa thông thường là không chỉ là nói đến quyền của cơ quan nào đấy mà còn bao hàm cả nghĩa vụ của cơ quan này. Đối với các cơ quan nhà nước thì quyền cũng đồng thời được hiểu là nghĩa vụ, nhưng không thể nói ngược lại rằng mọi nghĩa vụ của cơ quan ngược lại là quyền. Một cơ quan nhà nước có quyền thì đó cũng là quyền được trao và phải được thực hiện như một nghĩa vụ. Như vậy, nói thẩm quyền của cơ quan nhà nước nhất định thì cũng có nghĩa tương tự như ta nói đến quyền và nghĩa vụ hoặc bằng cách khác là nói nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan này. Nhưng, nếu nói đến thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước thì có một nghĩa khác. Có thể diễn đạt cụm từ “thẩm quyền và trách nhiệm" thành cụm từ tương đương là: “nhiệm vụ, quyền hạn (hoặc quyền và nghĩa vụ) và trách nhiệm”.
Rõ ràng khi đó trách nhiệm phải được hiểu đầy đủ hơn, Nó không phải là nghĩa vụ theo nghĩa là nghĩa vụ được xác định cụ thể cùng với các quyền cho cơ quan nhà nước. Vậy, trách nhiệm là gì? Khái niệm trách nhiệm được hiểu theo hai nghĩa là trách nhiệm pháp lý tích cực và trách nhiệm pháp lý tiêu cực. Trách nhiệm tích cực là muốn nói đến hành vi được hoan nghênh, khen ngợi và thể hiện trạng thái hành vi (hành động hoặc không hành động) của cá nhân, tổ chức, cơ quan được thực hiện một cách chủ động các quyền và nghĩa vụ được quy định cho mình. Trách nhiệm được được hiểu theo nghĩa là “trách nhiệm pháp lý tiêu cực” được sử dụng không phải để đánh giá sự xấu tốt của hành vi mà để chỉ việc cá nhân, tổ chức, cơ quan do có hành vi vi phạm pháp luật (không thực hiện hợp pháp nhiệm vụ, quyền hạn được giao) phải chịu trách nhiệm pháp lý. Trong trường hợp này, người vi phạm phải chịu trách nhiệm pháp lý ở trạng thái thụ động. Vì vậy, có thể gọi trách nhiệm pháp lý tiêu cực là trách nhiệm pháp lý thụ động. Từ đó cho thấy cụm từ “thẩm quyền và trách nhiệm” của cơ quan nhà nước là cụm từ chỉ toàn bộ nhiệm vụ, quyền hạn (hay là quyền và nghĩa vụ) và trách nhiệm (tích cực) trong việc thực hiện các nghĩa vụ, quyền hạn đó của cơ quan nhà nước.
2. Thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
2.1. Thẩm quyền và trách nhiệm trong công tác giải quyết khiếu nại hành chính.
Khái niệm “khiếu nại hành chính” được sử dụng trong trường hợp khiếu nại xảy ra trong quản lý hành chính nhà nước được giải quyết theo thủ tục hành chính, để phân biệt với “khiếu kiện hành chính” là tranh chấp xảy ra trong quản lý hành chính nhà nước, nhưng được giải quyết theo con đường toà án (hay tư pháp). Có thể còn có cách hiểu khác là việc công dân đề nghị xem xét, giải quyết đề nghị của cá nhân, tổ chức, cơ quan về quyền và lợi ích hợp pháp của mình dù được xem xét theo thủ tục hành chính hay thủ tục tư pháp thì đều có tên gọi là “khiếu nại hành chính”.
Như vậy cùng một khái niệm mà có hai cách hiểu khác nhau, trong đó đều có những khái cạnh hợp lý nhất định. Trong hoạt động của mỗi nhà nước được phân thành các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp với thừa nhận chung. Vì thế việc khiếu nại hành chính nảy sinh trong lĩnh vực nào thì được xác định tính từ theo nó, trong lĩnh vực hành pháp được hiểu là khiếu nại hành chính. Tuy nhiên không phải cứ khiếu nại xẩy ra ở lĩnh vực nào theo cách phân loại trên là được hiểu theo phạm vi đó mà còn phụ thuộc vào thủ tục xem xét giải quyết. Sự phân loại khiếu nại thành hai loại khiếu nại hành chính và khiếu nại tư pháp như trên về nguyên tắc, không phụ thuộc vào việc cơ quan nhà nước nào sẽ xem xét, giải quyết khiếu nại đó mà chỉ phụ thuộc vào sự phát sinh khiếu nại xuất phát trong lĩnh vực hoạt động nhà nước nào
Thực tiễn đời sống pháp luật xã hội nước ta cho thấy, khi công dân không thoả mãn với việc khiếu nại hành chính do các cơ quan giải quyết theo thủ tục hành chính thì sẽ tiếp tục đề nghị Toà án xem xét, giải quyết khi đó việc giải quyết này sẽ được hiểu là khiếu kiện hành chính. Điều cần chú ý trong khái niệm “khiếu kiện hành chính”, tính từ “hành chính” vẫn được giữ nguyên để chỉ vụ việc phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Do đó, sự khác nhau giữa hai cụm từ “khiếu nại hành chính" và “khiếu kiện hành chính" là ở hai từ “khiếu nại" và “khiếu kiện" hiểu theo nghĩa là vụ việc được xem xét, giải quyết theo thủ tục nào. Trong Luật khiếu nại và tố cáo đã qui định, các khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính nhà nước trước hết là các khiếu nại nảy sinh trong lĩnh vực hành pháp hay quản lý hành chính nhà nước.
Trong Luật khiếu nại và tố cáo đã qui định rõ thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu, lần hai thuộc về các cơ quan hành chính, trong đó kể cả cơ quan thanh tra. Trong trường hợp không thể giải quyết được thì mới theo con đường tòa án, lục này sự việc không còn là khiếu nại mà thuộc về khái niệm khiếu kiện và thẩm quyền thuộc về tòa án. Trong thực tế cho thấy, nhiều vụ việc khi được ra tòa thì lại bị trả về với nhiều lý do khác nhau trong đó liên quan đến thẩm quyền chiếm đáng kể.
Có thể khái quát một số giai đoạn chính phát triển pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính và vai trò của các cơ quan thanh tra đánh dấu bằng sự ra đời các văn bản sau:
- Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Theo đó, Chính phủ sẽ lập ngay một Ban Thanh tra đặc biệt, có uỷ nhiệm là đi giám sát tất cả công việc và nhân viên của Uỷ ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ. Điều 2 qui định nhiệm vụ của Ban Thanh tra đặc biệt là: “
Nhận đơn khiếu nại của nhân dân; điều tra hỏi chứng, xem xét các giấy tờ của Uỷ ban nhân dân hoặc các cơ quan của Chính phủ cần thiết cho công việc giám sát”. Sắc lệnh số 138b-SL ngày 18/12/1949 bãi bỏ Sắc lệnh số 64 ngày 23/11/1945 thành lập Ban Thanh tra đặc biệt, đặt một Ban Thanh tra Chính phủ trực thuộc Thủ tướng Phủ, cùng với nhiệm vụ x
em xét thi hành chủ trương của Chính phủ Ban Thanh tra của Chính phủ có nhiệm vụ “
Thanh tra các sự khiếu nại của nhân dân”
[1].
- Trong Thông tư số 203 NV/VP ngày 25/5/1946 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về khiếu tố nói rõ: “Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ thiết lập trên nền tảng dân chủ, có bổn phận đảm bảo công lý và vì thế rất để ý đến nguyện vọng của dân chúng và sẵn lòng xem xét những nỗi oan khuất trong dân gian”.
- Thông tư số 436/TTg ngày 13/9/1958 của Thủ tướng Chính phủ qui định trách nhiệm, quyền hạn và tổ chức của cơ quan chính quyền trong việc giải quyết các loại đơn thư khiếu nại, tố cáo (gọi tắt là khiếu tố) của nhân dân. Thông tư xác định: “Nghiên cứu và giải quyết các việc khiếu nại và tố giác của nhân dân là một trách nhiệm quan trọng của tất cả các cơ quan nhà nước trước nhân dân.” Thông tư nêu những nguyên tắc về quyền hạn và nghĩa vụ của nhân dân trong việc khiếu tố; những nguyên tắc về trách nhiệm và tổ chức của các cơ quan hành chính và cơ quan chuyên môn các cấp, các ngành trong việc nghiên cứu và giải quyết các loại đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
- Ngoài ra còn có một số văn bản như: Nghị quyết số 164/CP ngày 31/8/1970 của Hội đồng Chính phủ về việc tăng cường công tác thanh tra và chấn chỉnh hệ thống cơ quan Thanh tra của Nhà nước; Nghị định số 165/CP ngày 31/8/1970 của Hội đồng Chính phủ qui định nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ; Thông tư số 60/UBTT ngày 22/5/1971 của Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ hướng dẫn trách nhiệm của các ngành, các cấp về giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân…Trong các văn bản đó, Chính phủ đã giao thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo cho Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ và qui định một số nội dung có tính nguyên tắc như sau:
- Trách nhiệm giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo chủ yếu thuộc về cơ quan phát sinh vấn đề, trước hết là trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan.
- Trình tự xem xét và giải quyết đơn thư khiếu tố của Uỷ ban hành chính các cấp, các ngành chuyên môn.
Ngày 27/11/1981, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh qui định việc xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Đây là văn bản đầu tiên có qui định chi tiết về việc tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, trong đó, Pháp lệnh dành riêng một chương về thẩm quyền và thời hạn xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo (Chương III). Tiếp đó, tại Nghị định số 58/HĐBT ngày 29/3/1982 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thi hành Pháp lệnh qui định cụ thể hơn một bước thẩm quyền và trách nhiệm của công dân trong việc khiếu nại, tố cáo.
Cơ chế giải quyết theo Pháp lệnh năm 1981 là cơ chế cấp trên - cấp dưới theo hệ thống thứ bậc, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải là thủ trưởng của người bị khiếu nại. Người bị khiếu nại dù là thủ trưởng cơ quan nhà nước không có thẩm quyền tự giải quyết khiếu nại đối với việc làm của chính mình. Điều 12 Nghị định số 58 qui định : “Các khiếu nại, tố cáo do cơ quan, tổ chức cấp dưới đã xem xét, giải quyết nhưng đương sự còn khiếu nại, tố cáo thì thủ trưởng cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp có trách nhiệm thẩm tra lại, nếu thấy việc giải quyết của cấp dưới là đúng thì ra văn bản chuẩn y và thông báo cho đương sự biết; nếu phát hiện có sai lầm thì ra quyết định giải quyết lại và thông báo kết quả cho đương sự biết”.
Về trách nhiệm của các tổ chức thanh tra nhà nước, Pháp lệnh qui định Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ xem xét và trình Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng giải quyết các khiếu nại, tố cáo về việc làm trái chính sách, pháp luật của thủ trưởng các ngành trung ương hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương; xem xét và kiến nghị giải quyết lại hoặc trình Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng giải quyết các khiếu nại, tố cáo mà Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước, thủ trưởng cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương đã giải quyết nhưng phát hiện có sai lầm. Cơ quan thanh tra các ngành, cấp chịu trách nhiệm giúp thủ trưởng ngành hoặc cấp mình thực hiện việc quản lý thống nhất công tác xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc phạm vi ngành và cấp mình
[2]. Như vậy, trong giai đoạn thực hiện Pháp lệnh năm 1981 thì tổ chức Thanh tra chỉ làm tham mưu giúp thủ trưởng các cấp, các ngành trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính; không có quyền tự mình ban hành quyết định giải quyết các khiếu nại. Ngoài ra, các cơ quan Thanh tra có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn các ngành, các địa phương thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trong công tác giải quyết khiếu nai, tố cáo.
Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991
thay thế cho Pháp lệnh năm 1981 đã tách riêng thành chế định về khiếu nại, giải quyết khiếu nại và tố cáo, giải quyêt tố cáo; đưa ra một trình tự và thủ tục tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo một cách tương đối chặt chẽ, đã quy định chi tiết hơn về quá trình tiếp nhận, phân loại xử lý đơn thư, thụ lý vụ việc, thời hiệu khiếu nại, thời hạn giải quyết ở từng cấp… Đồng thời, theo tinh thần của Pháp lệnh năm 1991 thì tổ chức Thanh tra Nhà nước có thẩm quyền trực tiếp giải quyết chứ không chỉ đơn thuần là tham mưu cho thủ trưởng cùng cấp trong quá trình giải quyết. Ngoài ra, Pháp lệnh còn bổ sung qui
định tổ chức Thanh tra tỉnh và Thanh tra Nhà nước có quyền kháng nghị đối với quyết định giải quyết của tổ chức thanh tra cấp dưới. Thực hiện Pháp lệnh 1991, cơ quan thanh tra có quyền trực tiếp tham gia quá trình giải quyết bằng việc ban hành quyết định giải quyết (đối với khiếu nại lần hai) và đặc biệt là có quyền kháng nghị đối với quyết định của tổ chức thanh tra cấp dưới. Các tổ chức thanh tra Nhà nước cũng được giao quyền giải quyết tố cáo mà thủ trưởng cơ quan cấp dưới trực tiếp của thủ trưởng cùng cấp đã giải quyết, nhưng phát hiện có tình tiết mới hoặc việc giải quyết có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Tổng Thanh tra nhà nước giải quyến tố cáo đối với Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước, thủ trưởng cơ quan thuộc Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương
[3]…
Đến Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 và qua hai lần sửa đổi, bổ sung, quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo và trách nhiệm của các tổ chức thanh tra lại có một số thay đổi.
Về thẩm quyền trong giải quyết khiếu nại, theo Luật năm 1998, cơ quan thanh tra ngoài chức năng tham mưu (xác minh, kết luận, kiến nghị) còn có thể trực tiếp ban hành quyết định giải quyết khiếu nại khi được thủ trưỏng cơ quan hành chính cùng cấp uỷ quyền
[4] . Sau đó, qui định này đã được bãi bỏ khi sửa đổi Luật khiếu nại tố cáo (năm 2004) và thanh tra chỉ có chức năng tham mưu, với thẩm quyền xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp.
Nhìn chung, thẩm quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại thuộc về thủ trưởng cơ quan hành chính. Cơ quan thanh tra chính là cơ quan tham mưu cho Thủ trưởng cơ quan hành chính, không còn là một cấp giải quyết khiếu nại hành chính (ngoại trừ Tổng thanh tra có thẩm quyền giải quyết các khiếu nại mà thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ đã giải quyết lần đầu nhưng có khiếu nại) Thẩm quyền của các cơ quan thanh tra được thể hiện trên 3 chức năng:
+ Tham mưu cho thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp trong việc giải quyết khiếu nại hành chính;
+ Trực tiếp giải quyết khiếu nại hành chính nếu các khiếu nại đó thuộc thẩm quyền;
+ Kiểm tra, thanh tra trách nhiệm việc thực hiện các quy định pháp luật về khiếu nại của các cơ quan hành chính nhà nước.
Nếu như những quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết khiếu nại được quan tâm rất nhiều trong hai lần sửa đổi Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 thì những nội dung liên quan đến tố cáo và giải quyết tố cáo không có sự thay đổi. Thẩm quyền giải quyết tố cáo được thực hiện theo nguyên tắc: Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giải quyết tố cáo thuộc thẩm quyền; trong trường hợp cần thiết thì giao cho cơ quan Thanh tra hoặc cơ quan có thẩm quyền khác tiến hành thẩm tra, xác minh, kết luận và kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo.
2.2. Thẩm quyền và trách nhiệm giải quyết tố cáo hành chính.
Tố cáo hành chính được hiểu trước hết trong hai tiêu chí cơ bản là : hiện tượng nảy sinh trong cả lĩnh vực hoạt động nhà nước ; Là tố cáo có tính chất hành chính (khác với tố cáo tư pháp).
Để xác định tố cáo là tố cáo hành chính chúng ta chỉ dừng lại ở yếu tố là lĩnh vực nảy sinh, không xem xét đến vụ việc được xử lý theo con đường nào (hành chính hay con đường tư pháp).
Trong Luật khiếu nại và tố cáo định nghĩa: “Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định, báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức ”. Như vậy, Tố cáo trong luật này không nêu rõ là tố cáo hành chính hay tố cáo tư pháp, nhưng dưới góc độ nghiên cứu chúng ta xem xét tố cáo hành chính là tố cáo do công dân thực hiện nảy sinh trong quản lý hành chính nhà nước, trong quan hệ hành chính nhà nước giữa các cơ quan hành chính nhà nước với cá nhân, tổ chức, cơ quan là đối tượng của quản lý ấy. Tố cáo trong lĩnh vực tư pháp không là đối tượng xem xét của hệ thống hành chính nhà nước (cho dù nó có thể được giải quyết theo thủ tục hành chính qua chế định trách nhiệm kỷ luật hành chính). Tiếp nữa, tố cáo được xem xét bởi hệ thống hành chính nhà nước phải là tố cáo có mức độ nguy hiểm cho xã hội không cao tới mức hình sự. Nếu tới mức hình sự thì sẽ do hệ thống cơ quan tư pháp xem xét, giải quyết.
Theo Luật khiếu nại, tố cáo thì giải quyết tố cáo “là việc xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và việc quyết định xử lý của người giải quyết tố cáo”. Với khái niệm này thì việc giải quyết tố cáo là khá hẹp, chưa bao hàm giai đoạn đầu và giai đoạn cuối của quá trình giải quyết tố cáo, đó là việc tiếp nhận, thụ lý tố cáo và việc thi hành quyết định xử lý tố cáo, kiểm tra, giám sát hoạt động giải quyết tố cáo.
Nội dung cụ thể của việc giải quyết tố cáo bao gồm:
- Tiếp nhận nội dung tố cáo của người tố cáo;
- Xem xét nội dung tố cáo, hành vi của người bị tố cáo;
- Đưa ra các kết luận và biện pháp xử lý đối với những cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm và những biện pháp khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm gây ra;
- Kiểm tra, giám sát việc giải quyết tố cáo và việc thực hiện kết luật giải quyết tố cáo.
Giải quyết tố cáo là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tuy nhiên thẩm quyền cụ thể được trao cho nhiều cơ quan khác nhau do sự đa dạng, phức tạp của các nội dung tố cáo. Việc giải quyết tố cáo được thực hiện theo những trình tự, thủ tục luật định, tùy thuộc vào tính chất, nội dung tố cáo. Tương ứng với mỗi hành vi vi phạm pháp luật có những chế tài tương ứng nhằm mục đích răn đe, giáo dục và khắc phục những hậu quả do hành vi vi phạm pháp luật gây ra.
3. Cơ chế giải quyết tố cáo
Cơ chế giải quyết tố cáo là tổng thể toàn bộ các yếu tố trong quá trình giải quyết tố cáo của công dân. Bao gồm một số nội dung sau:
a. Thứ nhất: cơ quan, tổ chức, cá nhân được trao quyền giải quyết tố cáo.
Bao gồm các thiết chế như các cơ quan hành chính, những cá nhân có thẩm quyền giải quyết tố cáo… Các thiết chế giải quyế tố cáo do pháp luật quy định chặt chẽ về tổ chức và hoạt động, nhân danh nhà nước thực hiện việc xem xét, xử lý các tố cáo của công dân, nhằm duy trì trật tự pháp lý và trật tự, an toàn xã hội.
b. Thứ hai: Pháp luật thủ tục giải quyết tố cáo;
Đây là những quy định quan trọng giúp cơ quan có thẩm quyền thực hiện giải quyết một vụ việc tố cáo. Các quy định này quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia quan hệ giải quyết khiếu nại, tố cáo. Mỗi chủ thể, giải quyết tố cáo hay tố cáo đều có những quyền và nghĩa vụ tương ứng. Đảm bảo tuân thủ các quy định này khi tham gia vào quan hệ giải quyết tố cáo. Nếu các nội dung cấu thành ở trên là kết cấu khung vật chất của một cơ thể sống thì pháp luật thủ tục chính là “máu” giúp cho cơ thể sống hoạt động được.
c. Thứ ba: các thiết chế nhằm đảm bảo việc thi hành các kết luận giải quyết tố cáo;
Để việc giải quyết tố cáo triệt để, hiệu quả, cần hiểu việc giải quyết tố cáo bao gồm từ việc nhận đơn, phân loại, xử lý đến việc đảm bảo cho các kết luận giải quyết tố cáo được thực hiện, nhằm ngăn chặn những hành vi vi phạm khắc phục những hậu quả do hành vi vi phạm pháp luật gây ra. Các thiết chế này có thể là một bộ phận của cơ quan có thẩm quyền giải quyết hoặc là một cơ quan riêng biệt. Tuy nhiên với cách thức nào thì cái cuối cùng là đảm bảo mục tiêu giữ vững trật tự pháp luật, bảo vệ các giá trị pháp lý không bị xâm hại.
d. Thứ tư: Các thiết chế giám sát hoạt động giải quyết tố cáo;
Mỗi tổ chức bộ máy thường hay bị tật nếu không có cơ chế, sự kiểm soát từ bên ngoài. Điều này cũng như việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước theo thuyết tam quyền phân lập. Giữa 3 cơ quan thực hiện các quyền khác nhau nhưng lại có cơ chế giám sát, kiềm chế và đối trọng nhau, nhằm giám sát việc thực hiện quyền và tránh việc lạm quyền. Việc giám sát giải quyết tố cáo có thể thực hiện từ nhiều phía, các cơ quan quyền lực, thủ trưởng cơ quan cấp trên đối với cấp dưới, giám sát của xã hội. Mỗi loại hình giám sát đều nhằm hướng mục đích việc giải quyết tố cáo được đúng đắn, đảm bảo khôi phục các trật tự xã hội và lợi ích đã bị xâm phạm.
đ. Thứ năm: Cơ sở vật chất cho việc thực hiện giải quyết tố cáo phải đầy đủ, có các điều kiện cần thiết về trang thiết bị phục vụ, có chế độ khen thưởng, bảo vệ người tố cáo, có chế tài xử lý có trường hợp đe dọa hoặc gây tổn hại cho người tố cáo.
[1] Điều 4 Sắc Lệnh 138b-SL ngày 18/12/1949
[2] Điều 21 Nghị định số 58/HĐBT ngày 29/3/1982 của Hội đồng Bộ trưởng
[3] Điều 31, 32 Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo năm 1991
[4] Điểm b Khoản 1 Điều 27 Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 quy định.
TS. Nguyễn Quốc Hiệp
Viện trưởng Viện KHTT