Từ góc độ thực tiễn, quá trình đi tìm phương thức kiểm soát quyền lực chính là quá trình hoàn thiện và tối ưu hóa tổ chức quyền lực nhà nước, bảo đảm cho tổ chức đó được kiểm soát tốt nhất nhằm đáp ứng các nhu cầu thực hiện lợi ích của giai cấp và xã hội.
Trong những năm gần đây, vấn đề kiểm soát quyền lực được Ðảng ta chú trọng gắn liền với công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 là “Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng từng nhiều lần yêu cầu “Mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, quyền lực phải được ràng buộc bằng trách nhiệm, quyền lực đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền lực càng cao trách nhiệm càng lớn; lạm dụng, lợi dụng quyền lực cũng phải bị truy cứu trách nhiệm và xử lý vi phạm”[1]. Ðiều này thể hiện quyết tâm chính trị của Ðảng nhằm xây dựng, phát triển một cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả, ngăn chặn tình trạng lạm quyền, lộng quyền, “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực nhằm bảo đảm hình thành cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để không thể tham nhũng, tiêu cực; phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, tiêu cực để không dám tham nhũng, tiêu cực; đẩy mạnh cải cách chính sách tiền lương, nâng cao đời sống của cán bộ, công chức, viên chức; xây dựng văn hóa liêm chính, tiết kiệm để không cần, không muốn tham nhũng, tiêu cực.
Trong bộ máy nhà nước, Quốc hội được xác định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân, thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước[2]. Quốc hội kiểm soát quyền hành pháp, quyền tư pháp thông qua công tác xây dựng pháp luật (phân định, giao quyền, ủy quyền…), qua hoạt động giám sát, qua hoạt động bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng viện kiểm soát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia; bãi bỏ các văn bản pháp luật của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, tòa án nhân dân tối cao, viện kiểm soát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội.
1. Quốc hội kiểm soát quyền lực nhà nước để phòng, chống tham nhũng thông qua hoạt động lập pháp
Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Quốc hội và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định Quốc hội có thẩm quyền “làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật”. Theo đó thẩm quyền này được kiểm soát thông qua cơ chế bảo vệ Hiến pháp và quy định của pháp luật về quy trình lập pháp.
- Về cơ chế bảo vệ Hiến pháp: xuất phát từ yêu cầu bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật, ở nước ta đã hình thành khung pháp lý cho hoạt động bảo vệ Hiến pháp tập trung vào việc: (1) Phòng ngừa, giám sát, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của các văn bản quy phạm pháp luật, điều ước quốc tế; giám sát sự tuân thủ Hiến pháp trong hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Trong đó nội dung quan trọng và cơ bản nhất của hoạt động bảo vệ Hiến pháp là giám sát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm để luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật khác được ban hành đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, phù hợp với Hiến pháp, bảo đảm tính thống nhất, thứ bậc hiệu lực pháp lý của văn bản trong hệ thống pháp luật. (2) Hoạt động phát hiện và xử lý các văn bản quy phạm pháp luật, các điều ước quốc tế có dấu hiệu vi phạm Hiến pháp; các hành vi của các chủ thể được trao quyền vi phạm Hiến pháp nhằm phát hiện xử lý các văn bản, hành vi vi hiến, bảo đảm cho Hiến pháp được thực thi đầy đủ, tôn trọng trên thực tế.
- Về quy trình lập pháp: trong tất cả các quy trình ban hành chính sách, các quy trình quyết định, thực hiện các công việc của các cơ quan nhà nước thì quy trình lập pháp là quy trình được quy định rõ ràng, đầy đủ và cụ thể nhất, bảo đảm kiểm soát chặt chẽ hoạt động lập pháp. Theo đó, quy trình lập pháp bao gồm nhiều bước, nhiều giai đoạn bắt buộc phải tuân thủ, mỗi giai đoạn có tính chất độc lập tương đối, với nhiều chủ thể cùng tham gia một cách độc lập, không chịu sự tác động, sự chi phối tiêu cực của các chủ thể khác. Pháp luật cũng quy định quy trình lập pháp phải bảo đảm các nguyên tắc như công khai, dân chủ, minh bạch trong các bước thực hiện quy trình; quy định rõ về thẩm quyền đối với nội dung ban hành văn bản, về vấn đề ủy quyền lập pháp qua đó loại trừ việc lạm quyền, tùy tiện trong văn bản; trách nhiệm của chủ thể tham gia quy trình lập pháp; trách nhiệm tham gia của các cơ quan trong quá trình soạn thảo và việc lấy ý kiến của các bộ ngành, quy định về trách nhiệm tổng kết thực tiễn… qua đó bảo đảm việc xây dựng được khách quan, có chất lượng, khả thi, thể hiện được ý chí, nguyện vọng, lợi ích chung của nhân dân, của đất nước, không mang lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ, tham nhũng, tiêu cực
Nhìn chung, hệ thống pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước để phòng, chống tham nhũng đã được Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan hữu quan quan tâm xây dựng, không ngừng được hoàn thiện, từng bước đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Với các quy định của pháp luật, đã hình thành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; giữa quyền lực nhà nước ở trung ương và địa phương; cơ chế kiểm soát quyền lực trong nội bộ mỗi hệ thống cơ quan nhà nước và trong từng cơ quan nhà nước; cơ chế kiểm soát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước. Pháp luật cũng đã quy định về các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động giám sát, tự kiểm tra, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán…; đã quy định về biện pháp cụ thể để kiểm soát quyền lực nhà nước như thực hiện công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, thực hiện trách nhiệm cung cấp thông tin, trách nhiệm giải trình… Những quy định nêu trên đã góp phần quan trọng vào việc bảo đảm hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước, ngăn chặn sự lạm quyền, vi phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và qua đó góp phần bảo đảm kiểm soát quyền lực nhà nước để để phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, nhiều quy định của pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước còn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu tính khả thi dẫn đến tình trạng lạm dụng, lợi dụng quyền lực được giao vì động cơ cá nhân vẫn xảy ra, còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái, tự diễn biến, tự chuyển hóa, tham nhũng, lãng phí. Những hạn chế, bất cập của pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước để để phòng, chống tham nhũng thể hiện ở một số nội dung như sau:
- Quy định của pháp luật về tổ chức bộ máy, cơ cấu đại biểu dân cử còn chưa thực sự hợp lý, chưa đảm bảo tinh gọn, dẫn đến hiệu quả kiểm soát, giám sát quyền lực của Quốc hội đối với cơ quan hành pháp và tư pháp còn hạn chế.
- Quy định về phân định trách nhiệm, quyền hạn giữa các cơ quan nhà nước, giữa các cấp chính quyền còn trùng lắp, có nội dung chưa rõ ràng, chưa phát huy được hiệu quả trách nhiệm của người đứng đầu bộ, ngành, chính quyền địa phương.
- Quy định về vai trò của các cơ quan tư pháp trong kiểm soát quyền lực nhà nước còn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Chưa có cơ chế kiểm tra chặt chẽ từ bên ngoài đối với hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm soát hoạt động tư pháp, đối với hoạt động điều tra của cơ quan điều tra của viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Các quy định về công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị quy định tại các luật chuyên ngành còn chưa đảm bảo đồng bộ với các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng.
- Các quy định pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức còn có bất cập, hạn chế như trong tuyển dụng công chức, trong đánh giá cán bộ, công chức…
2. Quốc hội kiểm soát quyền lực nhà nước để phòng, chống tham nhũng thông qua hoạt động giám sát
Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, giám sát được hiểu là hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) thực hiện việc theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan, cá nhân do cơ quan dân cử bầu, thành lập, phê chuẩn hoặc các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác khi xét thấy cần thiết theo quy định nhằm bảo đảm các đối tượng chịu sự giám sát khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật[3]. Theo quy định của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân thì chủ thể thực hiện quyền giám sát gồm: Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Nhìn chung, hiện nay Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân đã quy định tương đối cụ thể về thẩm quyền giám sát, hình thức giám sát, nội dung giám sát, trách nhiệm của chủ thể giám sát và chủ thể chịu sự giám sát, hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát...
Trong những năm qua, hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội tiếp tục thể hiện tinh thần đổi mới, sáng tạo, hành động vì lợi ích nhân dân, đất nước; tập trung vào các vấn đề “nóng”, dư luận xã hội quan tâm, nhân dân bức xúc, góp phần quan trọng vào công tác kiểm soát quyền lực trong hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm soát nhân dân dân tối cao, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Nhìn chung, thông qua thảo luận, xem xét các báo cáo[4], hoạt động giải trình[5], lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm[6], giám sát chuyên đề, giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội[7], giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo[8], thông qua hoạt động điều tra của Ủy ban lâm thời[9] đã bước đầu có những tác động tích cực tới công tác phòng, chống tham nhũng, bảo đảm việc thực thi pháp luật, góp phần phát triển kinh tế - xã hội trong cả nước và ở các địa phương chịu sự giám sát. Qua hoạt động giám sát, những bất cập, hạn chế trong quản lý nhà nước; trách nhiệm trong chỉ đạo, điều hành của các thành viên Chính phủ, Chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm soát nhân dân dân tối cao được chỉ rõ; những hành vi lạm quyền, lộng quyền, cũng như trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân liên quan được phân tích, làm rõ trong việc sử dụng quyền lực nhà nước; làm rõ kẽ hở, những cơ chế không còn phù hợp, nhất là cơ chế “xin-cho”, chồng chéo thẩm quyền… để có những giải pháp khắc phục, hoàn thiện; qua đó tạo những chuyển biến rõ nét hơn trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; từng bước tiến tới tăng cường trách nhiệm, xử lý nghiêm để “không giám tham nhũng” và có hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, khả thi để “không thể tham nhũng”. Đồng thời, giúp Chính phủ, các bộ, ngành, các cơ quan tư pháp và các cơ quan liên quan có những điều chỉnh phù hợp trong công tác chỉ đạo, điều hành, khắc phục những hạn chế, bất cập, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; Quốc hội cũng có điều kiện đánh giá, kiểm nghiệm, bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật có liên quan, góp phần thực hiện tốt hơn chức năng lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng...
Tuy nhiên, hoạt động giám sát của Quốc hội để phòng, chống tham nhũng vẫn còn một số hạn chế, bất cập như: thời gian của kỳ họp, tiến hành chất vấn có hạn, nên một số báo cáo quan trọng trong liên quan đến hoạt động của bộ máy nhà nước[10] chưa được bố trí thảo luận riêng. Quy định về chất vấn, giải trình còn chưa cụ thể, thiếu những quy định về đánh giá việc tổ chức hoạt động chất vấn, nội dung chất vấn còn chung chung, chưa đảm bảo để tất cả các chất vấn của đại biểu Quốc hội được tiến hành trực tiếp tại kỳ họp và đi đến cùng vấn đề chất vấn. Hoạt động lấy phiếu tín nhiệm chỉ được 01 lần trong nhiệm kỳ tại kỳ họp cuối năm thứ ba[11], từ đó đến hết nhiệm kỳ, Quốc hội không có đánh giá thêm lần nào nữa, làm giảm hiệu lực của việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật vẫn chưa được thực hiện thường xuyên, chủ yếu kết hợp với hoạt động giám sát chuyên đề, thẩm tra báo cáo, tổ chức hoạt động giải trình; một số văn bản quy phạm dưới luật hướng dẫn trái tinh thần, nội dung của luật, nghị quyết, pháp lệnh chưa được kịp thời phát hiện và xử lý. Hoạt động giám sát chuyên đề chủ yếu dựa trên việc xem xét báo cáo của các cơ quan chịu sự giám sát, lượng thông tin thu được của các Đoàn giám sát còn lệ thuộc vào tinh thần hợp tác, thiện chí của đối tượng chịu sự giám sát. Quá trình giám sát của các Đoàn giám sát còn có sự nể nang, ngại va chạm, thiếu kiên quyết trong tranh luận giữa người giám sát và đối tượng chịu sự giám sát dẫn đến việc giám sát mới chỉ mang tính ghi nhận, phản ánh. Các kết luận giám sát chưa cụ thể, chưa quy kết trách nhiệm và đưa ra kết luận mang tính áp đặt trách nhiệm mạnh mẽ. Kiến nghị của Đoàn giám sát đôi khi còn chưa cụ thể, thiếu lượng hóa; nhiều kiến nghị giám sát còn chưa được các cơ quan thực hiện nghiêm túc...
Về hoạt động “hậu giám sát”: Lần đầu tiên, tại kỳ họp thứ 6 khóa XIV, Quốc hội tiến hành chất vấn trực tiếp những người đứng đầu các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội, đã thể hiện việc theo dõi, giám sát đến cùng việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội, nâng cao trách nhiệm của người bị chất vấn, nhất là của người đứng đầu[12], nhiều vấn đề bức xúc của đời sống kinh tế - xã hội tiếp tục được đưa ra phân tích, xem xét thấu đáo dưới nhiều góc độ. Qua đó, đồng bào, cử tri cả nước thấy được những nỗ lực, trách nhiệm của Chính phủ, các bộ, ngành trong công tác chỉ đạo, điều hành và trách nhiệm của đại biểu trong việc giám sát, theo dõi việc thực hiện các yêu cầu của Quốc hội.
3. Quốc hội kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước
Trong hoạt động quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, Quốc hội đã xem xét, quyết định nhiều quyết sách quan trọng của đất nước, qua đó thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân, đặc biệt là chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong thời kỳ mới; quyết định các vấn đề quan trọng về tổ chức và nhân sự cấp cao của Nhà nước kịp thời, đúng thẩm quyền, bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình, thủ tục luật định và phù hợp với tình hình thực tiễn, qua đó tiếp tục củng cố, kiện toàn, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước, quyết định các nhiệm vụ quan trọng về quốc phòng, an ninh, chính sách cơ bản đối ngoại phù hợp về thẩm quyền và tập trung vào vấn đề biên giới quốc gia và hợp tác quốc tế. Thông qua hoạt động thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các cơ quan của Quốc hội, hoạt động thảo luận; xem xét, thông qua các vấn đề quan trọng của đất nước của các đại biểu Quốc hội, Quốc hội đã tiến hành kiểm soát quyền lực nhà nước đối với các cơ quan của Chính phủ trong quá trình đề xuất các chính sách, các nội dung quan trọng của đất nước, góp phần phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
4. Đánh giá chung và kiến nghị một số giải pháp nâng cao vai trò của Quốc hội trong kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng
Có thể nhận thấy, vai trò của Quốc hội trong kiểm soát quyền lực nhà nước để phòng, chống tham nhũng thể hiện rõ nhất thông qua hoạt động giám sát. Qua hoạt động giám sát đã góp phần quan trọng để nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý, điều hành, triển khai thực hiện các quy định của pháp luật; nhiều chính sách, pháp luật có liên quan đã được kịp thời ban hành mới, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn tình hình đất nước cũng như góp phần quan trọng bảo đảm sự hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước, hạn chế tình trạng lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng kẽ hở của chính sách để tham nhũng, tiêu cực. Kết quả giám sát cơ bản tạo sự đồng thuận cao trong Quốc hội và cử tri cả nước. Tuy nhiên, công tác giám việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng vẫn còn nhiều hạn chế như rất ít phát hiện được những vấn đề quan trọng đặt ra trong thực tiễn, các đánh giá, kết luận, kiến nghị còn chung chung gây khó khăn cho việc thực hiện … nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hạn chế nói trên là:
- Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội chưa phân định được hiệu lực, hiệu quả giám sát giữa các chủ thể giám sát với nhau, ngay cả hiệu lực của hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực ở trung ương với cơ quan quyền lực ở địa phương; không quy định về phạm vi giám sát của từng chủ thể[13]. Do lúng túng về chủ thể và phạm vi giám sát nên trong thời gian qua, hoạt động chất vấn của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, hoạt động giải trình của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội mới chỉ dừng lại ở mức độ yêu cầu người có thẩm quyền do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn chất vấn hoặc giải trình; nhưng giám sát chuyên đề hoặc giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo lại chủ yếu được thực hiện ở địa phương, sau đó làm việc với cơ quan ở trung ương để đánh giá về những vấn đề đã giám sát trước khi ban hành báo cáo giám sát. Chưa có quy định cụ thể về hậu quả pháp lý của đối tượng chịu sự giám sát (nhất là các đối tượng chịu sự giám sát ở địa phương). Do đó, qua công tác giám sát, Quốc hội chỉ xem xét trách nhiệm của người đứng đầu do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn trong công tác quản lý, điều hành.
- Đại biểu Quốc hội - chủ thể trực tiếp thực hiện các hoạt động giám sát còn thiếu kinh nghiệm, thực tiễn giám sát, những đại biểu kiêm nhiệm khi thực hiện nhiệm vụ đại biểu trong hoạt động này thì lại là những người đang giữ chức vụ trong ngành mà mình tiến hành giám sát nên khó khách quan trong đánh giá hiệu quả hoạt động của ngành mình.
Để tăng cường hiệu lực trong kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động giám sát, cần thiết:
- Về thể chế:
Làm rõ và quy định trực tiếp trong các luật về vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực từ nhân dân, các cơ quan dân cử trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân nhằm bảo đảm các cơ quan dân cử có thể thực hiện đúng thực quyền của mình trên thực tế; sửa đổi các quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và các quy định về điều kiện hoạt động của đại biểu Quốc hội để bảo đảm tính độc lập của đại biểu Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế chung bảo đảm trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ giải quyết và trả lời các kiến nghị, đề nghị của cơ quan dân cử, nhất là đề nghị giải quyết đơn tố cáo tham nhũng của công dân. Hoàn thiện hơn các chế định pháp lý về: phạm vi, đối tượng, nội dung, phương thức tiến hành giám sát, hậu quả pháp lý và trách nhiệm thực hiện kết luận giám sát…
- Về hình thức, phương thức giám sát và điều kiện bảo đảm
Tăng cường đồng bộ các hình thức giám sát (Đoàn giám sát, khảo sát, nghe báo cáo, giải trình, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo…). Việc giám sát cần tiến hành theo kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm. Tăng cường các kênh, các hoạt động tiếp xúc với cử tri, sử dụng chuyên gia, tổ chức điều tra xã hội học …để phục vụ hoạt động giám sát. Tăng cường tính công khai trong giám sát việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng. Giám sát sẽ có hiệu quả nếu hoạt động này tạo được lòng tin của người dân; dựa vào sự ủng hộ của công luận, báo chí để tăng thêm sức mạnh của mình.
TS. Hoàng Nam Hải
Vụ trưởng Vụ Tư pháp, Văn phòng Quốc hội
"Bài viết có sử dụng nội dung tham luận hội thảo Đề tài khoa học độc lập cấp quốc gia “Kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam”, mã số ĐTĐL.XH-05/21"
[1] Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác PCTN giai đoạn 2013-2020 diễn ra sáng 12/12/2020 tại Hà Nội.
[2] Điều 69 Hiến pháp năm 2013
[3] Quốc hội khóa XIV – Thành tựu và dấu ấn nổi bật, 2021, tr223.
[4] Việc thảo luận các báo cáo của Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC về tình hình kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước, về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công tác thi hành án, công tác PCTN… tại các kỳ họp cuối năm có ý nghĩa quan trọng đối với việc kiểm soát quyền lực trong hoạt động của Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC. Những lĩnh vực vốn được coi là nhạy cảm như thu, chi ngân sách nhà nước; quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản; đấu thầu; cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước… thường có nguy cơ cao dẫn đến sự lạm quyền, lộng quyền, “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực, xâm phạm đến những quyền cơ bản của công dân đã được Quốc hội xem xét, thảo luận kỹ lưỡng.
[5] Hoạt động chất vấn, giải trình của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội tiếp tục được đổi mới về chiều sâu, chú trọng về chất lượng, tinh thần xây dựng, trách nhiệm, tính dân chủ, công khai, tăng cường tranh luận, đối thoại.
[6] Lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm là phương thức kiểm soát quyền lực có tính trực tiếp đối với những cán bộ cấp cao của Đảng và Nhà nước. Kết quả mức độ tín nhiệm của từng chức danh đã phản ánh chân thực, khách quan ý chí của Quốc hội trong việc đánh giá năng lực, phẩm chất, việc hoàn thành nhiệm vụ đối với người được Quốc hội bầu, phê chuẩn, giúp những người được lấy phiếu tín nhiệm thấy được trách nhiệm của mình rõ hơn, có phương hướng khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót, phấn đấu rèn luyện nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động, thực hiện tốt chức trách, quyền hạn được giao.
[7] Giám sát văn bản quy phạm pháp luật cũng được tăng cường thực hiện, Quốc hội đã tiến hành rà soát lại toàn bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; thực hiện thông qua công tác giám sát việc chấp hành pháp luật, nhất là việc áp dụng pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước... bảo đảm phù hợp với quy định của Hiến pháp và luật, nghị quyết, pháp lệnh do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành.
[8] Hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo là một kênh quan trọng, vừa góp phần bảo đảm thực hiện tốt quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, vừa là phương thức để Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội kiểm soát quyền lực, phát hiện những hạn chế trong công tác phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng của cơ quan có thẩm quyền để quyết định tiến hành giám sát chuyên đề, giám sát các vụ án cụ thể khi có khiếu nại gay gắt, bức xúc, kéo dài, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa cơ quan đại diện cao nhất với cử tri, nhân dân.
[9] Đây là hoạt động giám sát có ưu điểm là đảm bảo tính linh hoạt trong tổ chức và hoạt động, đáp ứng yêu cầu với từng loại vụ việc được Quốc hội giao điều tra.
[10] Như Báo cáo của Chính phủ về tình hình thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí… chỉ được gửi đến các vị đại biểu Quốc hội tự nghiên cứu và kết hợp thảo luận với các nội dung khác.
[11]Nghị quyết số 85/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn
[12] Thủ tướng Chính phủ, 3 Phó Thủ tướng Chính phủ (Nguyễn Xuân Phúc, Hoàng Trung Hải, Vũ Đức Đam), 14 vị Bộ trưởng (Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Giáo dục và Đào tạo, Công thương, Khoa học và công nghệ, Y tế, Tài chính, Nội vụ, Thông tin và Truyền thông, Xây dựng, Giao thông vận tải, Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tài nguyên và Môi trường, Lao động - thương binh và xã hội, Tư pháp), 3 vị trưởng ngành (Tổng thanh tra Chính phủ; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao) đã trả lời chất vấn tại kỳ họp 10, với 140 câu hỏi.
[13] Hiện nay còn có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Có quan điểm cho rằng, Quốc hội, với trách nhiệm hoạch định chính sách ở tầm vĩ mô thì chỉ nên giám sát đối với các cơ quan ở trung ương; cũng có quan điểm cho rằng, với thẩm quyền giám sát toàn bộ hoạt động của nhà nước thì Quốc hội giám sát đối với tất cả mọi hoạt động của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương.