1. Thuật ngữ quốc gia
Thuật ngữ “quản trị quốc gia” (đôi khi được gọi là “quản trị nhà nước”) ở Việt Nam bắt nguồn từ thuật ngữ governance/public governance trong tiếng Anh. Theo Daniel Kaufmann, governance là “Các truyền thống và thể chế mà dựa vào đó để thực hiện quyền lực ở một quốc gia”.[1] Ngân hàng thế giới (WB) xem governance là “ … cách thức mà quyền lực được thực thi thông qua các thể chế chính trị, kinh tế, xã hội của một quốc gia”[2]. Theo Cơ quan phát triển Liên hợp quốc (UNDP), governance là “việc thực thi quyền lực chính trị, hành chính, kinh tế để quản lý các vấn đề của quốc gia ở mọi cấp độ”.[3] Còn theo Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), “governance nói đến môi trường thể chế mà ở đó các công dân tương tác với nhau và với các cơ quan, quan chức nhà nước”.[4]
Trong thực tế, governance là một thuật ngữ chủ yếu gắn với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước (quản trị quốc gia/quản trị nhà nước)[5], mặc dù khái niệm này cũng được sử dụng trong một số bối cảnh khác, chẳng hạn như quản trị doanh nghiệp (corporate governance),[6] quản trị quốc tế (international governance), quản trị toàn cầu (global governance)...[7] Đối với quản trị quốc gia, có nghiên cứu lại chia thành quản trị ở cấp độ toàn quốc (national governance) và quản trị ở cấp địa phương (local governance), trong đó mặc dù chia sẻ những nguyên tắc chung nhưng ở mỗi cấp có một số đặc trưng riêng.[8]
Về mặt lịch sử, quản trị quốc gia về bản chất không phải là một khái niệm chính trị, pháp lý mới, mà đã được đề cập từ lâu trên thế giới. Ngay từ thời Hy lạp - La Mã cổ đại, một số nhà tư tưởng, ví dụ như Aristotle, đã nói đến vấn đề này thông qua những luận điểm về các mô hình, vai trò và cách thức quản trị của nhà nước.[9] Mặc dù vậy, khái niệm quản trị nhà nước/quản trị quốc gia mới chỉ được quan tâm đặc biệt và thảo luận rộng tãi trên thế giới trong 2 - 3 thập kỷ gần đây, và dần dần được dùng thay thế cho thuật ngữ ‘government’’ (cai trị) mà trong đó nhà nước giành cho mình vị trí gần như độc tôn và thiên về áp dụng các biện pháp có tính áp đặt để quản lý xã hội.[10]
Việc chuyển từ việc sử dụng thuật ngữ ‘government’ (cai trị) sang ‘governance’ (quản trị) trong hoạt động của nhà nước được khá nhiều học giả phân tích, trong đó hầu hết cho rằng đây là xu hướng của thế kỷ 21 và phản ánh sự thay đổi lớn trong nhận thức và cách thức thực thi quyền lực chính trị ở các quốc gia.[11] Sự chuyển đổi này cho thấy vai trò của nhà nước trong thế kỷ 21 đang và sẽ thay đổi, vị trí độc tôn của bộ máy nhà nước đang bị thách thức bởi những thiết chế và chủ thể dân chủ mới.[12] Những thiết chế dân chủ mới này đang làm thay đổi mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia vào các hệ thống chính trị, thể hiện qua sự điều chỉnh các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm giữa các bên liên quan. So với mô hình government trước đây, mô hình governance hiện nay có sự tham gia chủ động của một phạm vi các chủ thể rộng lớn hơn rất nhiều. Quyền lực chính trị được phân bổ một cách hợp lý giữa bộ máy nhà nước và người dân, thông qua sự hình thành, phát triển và hoạt động của các phong trào và tổ chức xã hội, cũng như qua việc phân quyền từ chính quyền trung ương xuống chính quyền địa phương. Trong tiến trình ra quyết định và thực thi các quyết định chính sách, mô hình quản trị đòi hỏi có sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau, với mức độ, vai trò, cách thức, thời điểm và giai đoạn khác nhau. Cách chủ thể tham gia có thể chính thức (formal actors) hoặc không chính thức (informal actors), có vị trí trong các cấu trúc chính thức (formal structures) hoặc không chính thức (informal structures),[13] trong đó nhà nước là chủ thể chính nhưng không phải duy nhất. Ngoài nhà nước còn có các chủ thể khác mà sự tham gia phụ thuộc vào từng dạng và bối cảnh của quản trị, ví dụ như người dân, doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế, các đảng chính trị, các tổ chức tôn giáo, các cơ quan truyền thông, các cơ sở học thuật…
2. Quản trị quốc gia tốt
Từ những phân tích ở mục trên, có thể thấy quản trị quốc gia là mặt biểu hiện của thể chế. Hiệu quả quản trị quốc gia chính là thước đo tác động của thể chế. Một đất nước muốn giàu mạnh thì cần phải được quản trị theo cách thức tiên tiến, vì "thể chế tiến bộ sẽ mở đường cho đất nước phát triển".[14]
Khái niệm quản trị quốc gia theo cách thức tiên tiến có thể hiểu thông qua một thuật ngữ được dùng rất phổ biến bởi các tổ chức quốc tế trong vài thập kỷ gần đây, đó là good governance (tạm dịch là quản trị quốc gia tốt). Đây cũng không phải là một khái niệm hoàn toàn mới, vì một số quan điểm về vấn đề này đã được đề cập bởi một số nhà tư tưởng Hy lạp - La Mã cổ đại. Ví dụ, Aristotle, trong Chính trị luận (Politics), bằng việc phân tích đặc điểm, các nguyên tắc hoạt động của các dạng chế độ chính trị, cách thức tổ chức quốc gia và các mô hình dân chủ[15] thực chất đã tạo lập những nền tảng lý luận về quản trị quốc gia tốt.[16] Mặc dù vậy, trong một thời gian dài, khi mà khái niệm quản trị (governance) bị lấn át bởi khái niệm cai trị (government) thì vấn đề quản trị tốt cũng ít được nhắc đến. Tuy nhiên, kể từ thập niên 1980, cùng với khái niệm quản trị quốc gia, khái niệm quản trị quốc gia tốt được đề cập đến ngày càng nhiều. Nguyên nhân được lý giải là bởi thực trạng quản trị quốc gia kém (bad governance) mà các dấu hiệu đặc trưng là tình trạng tham nhũng, chính quyền thiếu trách nhiệm, thiếu năng lực… ngày càng nghiêm trọng trên thế giới, dẫn đến nhu cầu cần tìm ra biện pháp giải quyết.[17] Trong bối cảnh đó, quản trị quốc gia tốt trở thành một yếu tố quan trọng trong các chương trình nghị sự về chính trị và kinh tế cả ở cấp độ quốc tế, khu vực và quốc gia, đồng thời được xem như là một trong những tiêu chí căn bản để đánh giá sự phát triển của một đất nước.
Cũng giống như khái niệm quản trị quốc gia, có nhiều định nghĩa khác nhau về quản trị quốc gia tốt, tuy nhiên, theo các cơ quan Liên hợp quốc, quản trị quốc gia tốt bao gồm 8 đặc trưng chính (major characteristics)[18] đó là: Sự tham gia (participatory), định hướng đồng thuận (consensus oriented), trách nhiệm giải trình (accountable), sự minh bạch (transparent), sự kịp thời (responsive), tính hiệu lực (effective), tính hiệu quả (efficient), tính bình đẳng và không loại trừ chủ thể nào (equitable and inclusive) và tuân thủ pháp quyền (follows the rule of law), cụ thể như sau:[19]
Sự tham gia
Sự tham gia của người dân được xem là một yếu tố cốt lõi của quản trị quốc gia tốt. Quản trị quốc gia tốt đòi hỏi phải có sự tham gia của người dân một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các cơ quan đại diện (representatives) hoặc các thiết chế trung gian hợp pháp (legitimate intermediate institutions). Các nhà nước cần thông báo và tổ chức cho người dân tham gia vào quản lý xã hội. Điều này đòi hỏi các nhà nước phải bảo đảm các quyền tự do hiệp hội và biểu đạt, cũng như sự tồn tại và vận hành của xã hội công dân có tổ chức (organized civil society).
Pháp quyền
Quản trị quốc gia tốt đòi hỏi phải có khuôn khổ pháp luật công bằng và pháp luật phải được thực thi pháp luật một cách không thiên vị (impartially). Bên cạnh đó, quản trị quốc gia tốt đòi hỏi các quyền con người, đặc biệt là quyền của các nhóm thiểu số, phải được bảo vệ một cách đầy đủ và hiệu quả. Việc thực thi pháp luật một cách không thiên vị lại đặt ra yêu cầu bảo đảm một nền tư pháp độc lập (independent judiciary) và một lực lượng cảnh sát liêm chính, vô tư (impartial and incorruptible police force).
Minh bạch
Quản trị quốc gia tốt đòi hỏi sự minh bạch. Minh bạch có nghĩa là khi đưa ra các quyết định và việc thực hiện các quyết định nhà nước phải tuân thủ các luật lệ và quy tắc. Nó cũng có nghĩa là thông tin về quá trình ban hành và thi hành các quyết định đó phải công khai để mọi người, đặc biệt là những người chịu ảnh hưởng bởi các quyết định đó. Không chỉ vậy, minh bạch còn đòi hỏi những thông tin đã nêu phải được công khai một cách đầy đủ, nhanh chóng, dưới những dạng thức dễ hiểu, bao gồm trên các phương tiện truyền thông, để mọi người đều có thể trực tiếp tiếp cận.
Sự kịp thời
Quản trị quốc gia tốt đòi hỏi các thiết chế và tiến trình cung cấp dịch vụ công của nhà nước phải phục vụ tất cả các chủ thể có liên quan trong một khung thời gian có thể chấp nhận được (within a reasonable timeframe).
Định hướng đồng thuận
Ở bất kỳ xã hội nào cũng có những nhóm xã hội khác nhau với nhiều quan điểm khác nhau về mỗi vấn đề. Quản trị quốc gia tốt đòi hỏi các nhà nước phải trung hoà (mediation) các lợi ích khác biệt (different interests) trong xã hội để đạt được sự đồng thuận rộng rãi (broad consensus) về một lợi ích tốt nhất cho toàn thể cộng đồng và cách thức để đạt được mục tiêu đó. Nó cũng đòi hỏi các nhà nước phải vạch ra một chiến lược hay viễn cảnh rộng và dài hạn (a broad and long - term perspective) về những gì cần thiết cho sự phát triển ổn định về con người và cách thức đạt được những mục tiêu của sự phát triển đó. Điều này chỉ có thể đạt được khi có sự hiểu biết đầy đủ về bối cảnh lịch sử, văn hoá, xã hội của một cộng đồng hay quốc gia.
Bình đẳng và không loại trừ chủ thể nào
Quản trị quốc gia tốt đòi hỏi sự bình đẳng và không loại trừ nhóm hay cá nhân nào nào trong xã hội khỏi quá trình phát triển. Sự thịnh vượng của một xã hội phụ thuộc vào việc bảo đảm tất cả các thành viên của nó có cảm nhận rằng họ là một thành tố trong đó chứ không bị gạt ra bên lề. Điều này có nghĩa là tất cả các nhóm xã hội, đặc biệt là các nhóm dễ bị tổn thương, đều phải có cơ hội được duy trì và nâng cao sự thịnh vượng của họ.
Hiệu lực và hiệu quả
Quản trị quốc gia tốt có nghĩa là các tiến trình và thể chế đem lại những kết quả đáp ứng các nhu cầu của xã hội trong khi chỉ tiêu tốn các nguồn lực ở mức tối thiểu. Khái niệm hiệu quả trong quản trị quốc gia tốt còn bao hàm việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững và bảo vệ môi trường.
Trách nhiệm giải trình
Trách nhiệm giải trình là một yêu cầu cốt yếu của quản trị quốc gia tốt. Không chỉ các cơ quan nhà nước mà các tổ chức xã hội công dân và khối tư nhân cũng phải có trách nhiệm giải trình trước công chúng và trước các đối tác. Phạm vi chủ thể và đối tượng hướng tới của trách nhiệm giải trình khác nhau giữa các quốc gia, phụ thuộc vào việc các quyết định và hành động được tiến hành hay áp dụng ở trong hay ở ngoài cơ quan, tổ chức đó. Trách nhiệm giải trình có mối quan hệ khăng khít với pháp quyền và sự minh bạch. Không thể có trách nhiệm giải trình nếu không tôn trọng và thực hiện các nguyên tắc pháp quyền và sự minh bạch.
Từ những phân tích ở trên, có thể thấy, quản trị quốc gia tốt là một tập hợp những tiêu chí cho sự vận hành của xã hội nhằm hướng đến mục tiêu thúc đẩy, bảo đảm sự phát triển hài hoà, bền vững của một quốc gia. Quản trị quốc gia tốt không phải là một mô hình tổ chức, hoạt động của một nhà nước hay một hệ thống chính trị, mà là các nguyên tắc định hướng cho việc thiết kế và vận hành bộ máy nhà nước hoặc hệ thống chính trị đó.
Cũng từ những phân tích nêu trên, có thể thấy quản trị quốc gia tốt là khái niệm rất rộng lớn, bao trùm cả ba chiều cạnh chính, đó là[20]: Về kinh tế: Thể hiện ở các nguyên tắc nhằm thúc đẩy tính công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan nhà nước cũng như tính hiệu quả trong việc quản lý và sử dụng các nguồn lực công. Về xã hội: Thể hiện ở các nguyên tắc nhằm thúc đẩy sự bình đẳng và sự tham gia của người dân vào các hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Về chính trị: Thể hiện ở các nguyên tắc nhằm tăng cường pháp quyền và trách nhiệm giải trình của bộ máy nhà nước. Do tính chất rộng lớn như vậy, việc bảo đảm tất cả các nguyên tắc của quản trị quốc gia tốt là không dễ dàng. Trong thực tế, hiện mới có ít quốc gia đạt được tất cả các tiêu chí của quản trị quốc gia tốt. Tuy nhiên, đây là một mục tiêu mà các quốc gia vẫn cần nỗ lực đạt được để phát triển bền vững.
3. Quản trị quốc gia ở Việt Nam từ đổi mới (1986) đến nay
Quản trị quốc gia, và cùng với nó là quản trị quốc gia tốt, là khái niệm mới ở Việt Nam. Trước đây, các khái niệm này hầu như không được nhắc đến. Tư duy từ trước tới nay ở Việt Nam thiên về quản lý nhà nước (state management) (tức nghiêng về government - cai trị, áp đặt), chứ chưa phải theo hướng quản trị nhà nước/quản trị quốc gia (governance).
Kể từ cuối thập kỷ 1990, khái niệm quản trị mới bắt đầu được đề cập ở Việt Nam, chủ yếu qua các tài liệu của các cơ quan Liên Hợp Quốc như Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) hay Ngân hàng thế giới (WB). Gần đây, khái niệm quản trị nhà nước/quản trị quốc gia tốt mới được nhắc đến nhiều trong giới học thuật, trong đó đặc biệt là ở Khoa Luật ĐHQG Hà Nội - nơi đầu tiên tổ chức nghiên cứu và giảng dạy, bao gồm cả một chương trình đào tạo thạc sĩ về quản trị nhà nước (kết hợp với vấn đề phòng, chống tham nhũng).
Mặc dù vậy, trong thực tế, kể từ Đổi mới (1986), do tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, quản lý nhà nước ở Việt Nam đã liên tục có những thay đổi sâu rộng theo hướng quản trị. Sự thay đổi này diễn ra ở tất cả các phương diện, gắn với tất cả các nguyên tắc của quản trị quốc gia tốt. Có thể thấy điều đó qua những nỗ lực xây dựng nhà nước pháp quyền; bảo đảm sự tham gia của người dân vào quản lý xã hội; bảo đảm tính công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước; bảo đảm sự bình đẳng của các chủ thể trong xã hội và hỗ trợ các nhóm dễ bị tổn thương; bảo đảm tính kịp thời, hiệu lực, hiệu quả và sự đồng thuận xã hội trong việc hoạch định và tổ chức thực thi các chính sách, pháp luật của nhà nước…
Dù vậy, cũng cần thấy rằng, trên tất cả các mặt nêu trên, hiện ở nước ta vẫn còn những hạn chế nhất định. Mức độ hạn chế khác nhau trong từng lĩnh vực, tuy nhiên, xét tổng quát, có thể thấy rằng cần có biện pháp thúc đẩy thực hiện tất cả nguyên tắc của quản trị quốc gia tốt ở Việt Nam. Đây là một yêu cầu cấp thiết bởi lẽ quản trị quốc gia tốt gắn liền với quá trình toàn cầu hoá; hầu hết các nguyên tắc của quản trị quốc gia tốt đồng thời là những “luật chơi” trong “sân chơi” toàn cầu hoá, vì thế nếu không thúc đẩy quản trị quốc gia tốt thì không hội nhập quốc tế được hoặc không thể hưởng lợi được từ quá trình hội nhập quốc tế. Không chỉ vậy, các nguyên tắc của quản trị quốc gia tốt hiện cũng chính là nhu cầu, đòi hỏi ngay trong nước. Cùng với quá trình Đổi mới, hội nhập quốc tế, nhận thức và ý thức của người dân Việt Nam hiện nay đã thay đổi rất nhiều so với trước đây. Yêu cầu của người dân về dân chủ, pháp quyền, nhân quyền, bình đẳng xã hội, về tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước đã tăng lên và ngày càng cao hơn; trong khi đó, cùng với sự phát triển hết sức nhanh chóng của công nghệ thông tin, những cơ hội hay điều kiện cho sự tham gia của người dân vào quản trị quốc gia đã trở nên dễ dàng, thuận lợi hơn bao giờ hết. Tất cả tạo ra áp lực rất lớn phải chuyển đổi mô hình từ quản lý nhà nước truyền thống sang quản trị theo những nguyên tắc của quản trị quốc gia tốt mà đã nêu ở trên.
4. Quản trị quốc gia trong dự thảo văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 13 và một số đề xuất, khuyến nghị
Tuy chưa được đề cập một cách trực tiếp, song trong thực tế nhiều nguyên tắc của quản trị quốc gia tốt đã được đề cập trong nhiều văn kiện do Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành kể từ khi Đổi mới (1986), trong đó đáng kể nhất là các nguyên tắc pháp quyền; công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước; sự tham gia của nhân dân vào quản lý nhà nước…
Nhưng cũng cần thấy rằng, do thiếu nhận thức tổng quát về tầm quan trọng và nội hàm của quản trị quốc gia tốt, cho nên những nội dung có liên quan trong các văn kiện của Đảng từ Đổi mới đến nay còn tản mát, có phần thiếu nhất quán, chưa tạo ra những điểm nhấn cần thiết tương xứng với ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề.
Trong bốn dự thảo văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, ngoại trừ Dự thảo Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng nhiệm kỳ Đại hội XII, thuật ngữ “quản trị” xuất hiện rất nhiều lần trong cả ba văn kiện còn lại, đó là: Dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng; Dự thảo Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030; Dự thảo Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 05 năm 2021 - 2025. Trong đó, khái niệm quản trị được sử dụng để chỉ các vấn đề đa dạng như quản trị doanh nghiệp, quản trị tổ chức (quản trị nội bộ), quản trị toàn cầu, quản trị quốc gia (bao gồm cả quản trị nhà nước)…
Xét riêng về quản trị quốc gia, khái niệm này được sử dụng trong các văn kiện sau đây:
- Trong Dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng, tại Mục IV (Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa), tiểu mục 2 (Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn) nêu rõ: Nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia, xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới. Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, uỷ quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành.
- Trong Dự thảo Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030; tại Mục III (Nguyên nhân và bài học kinh nghiệm), tiểu mục 2 (Bài học kinh nghiệm) nêu rõ:… Ba là, ... Phải đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội. Tập trung cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; lấy kết quả phục vụ và mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp làm tiêu chí đánh giá. Phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân.
- Trong Dự thảo Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế -xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, tại Mục II (Các hạn chế, yếu kém, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm), tiểu mục 3 (Bài học kinh nghiệm) nêu rõ: Ba là, thể chế pháp luật được xây dựng đầy đủ, đồng bộ với tư duy mới, phù hợp với thực tiễn và tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả; cải cách bộ máy chính quyền các cấp, xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động là nền tảng. Coi trọng tính cân đối, hiệu quả trong tất cả các khâu huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Phải coi trọng đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội.
Những quy định nêu trên bước đầu cho thấy có một sự chuyển biến lớn trong tư duy của Đảng về cơ chế vận hành và thúc đẩy sự phát triển của xã hội, cụ thể là từ quản lý nhà nước sang quản trị quốc gia, hay từ government sang governance. Đây có thể xem là một sự phát triển mới về mặt lý luận của Đảng. Tuy nhiên, như đã nêu ở các phần trên, nhiều nội dung của quản trị quốc gia tốt đã được thúc đẩy ở Việt Nam kể từ Đổi mới, vì vậy, đây không phải là vấn đề mới trong thực tế. Nói cách khác, sự phát triển về lý luận của Đảng trong vấn đề này có nguồn gốc từ thực tế trong nước. Sự phát triển đó cũng phù hợp với xu hướng chung, mang tính quy luật trên thế giới, mà gắn liền với quá trình dân chủ hoá, toàn cầu hoá, và sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ số, trong thế kỷ 21.
Tuy nhiên, cũng có thể thấy rằng những quy định về quản trị quốc gia trong dự thảo các văn kiện nêu trên của Đảng vẫn chưa tương xứng với ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề. Cụ thể, trong văn kiện quan trọng nhất (Dự thảo Báo cáo chính trị), quản trị quốc gia mới chỉ được đặt trong mối quan hệ hạn hẹp của thể chế kinh tế, như là một điều kiện hay yêu cầu của việc “hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn”. Cách đặt vấn đề như vậy vô hình trung đã giới hạn quản trị quốc gia trong quản trị về kinh tế, trong khi không thể tách rời quản trị quốc gia về kinh tế với quản tri quốc gia trên các lĩnh vực khác như chính trị, văn hoá, xã hội…Trong thực tế, quản trị quốc gia tốt trong các lĩnh vực chính trị, văn hoá, xã hội chính là căn cốt cho sự phát triển của các lĩnh vực khác, kể cả thể chế kinh tế thị trường.
Trong các Dự thảo Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020… và Dự thảo Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 05 năm 2016 - 2020.., vấn đề quản trị quốc gia được tiếp cận rộng hơn, không chỉ gắn với lĩnh vực kinh tế, mà bao trùm cả các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, các văn kiện này có xu hướng chỉ nhấn mạnh các yêu cầu về hiệu lực, hiệu quả của quản trị quốc gia tốt, còn các yêu cầu khác chưa đề cập một cách đúng mức. Việc có một số yêu cầu có thể sẽ bị coi nhẹ sẽ khó có thể tạo ra và duy trì một nền quản trị quốc gia tốt một cách toàn diện và bền vững.
Ngoài ra, trong cả ba dự thảo nêu trên, thuật ngữ “quản trị quốc gia” chưa được sử dụng một cách nhất quán. Ở một số mục, các dự thảo vẫn dùng một số thuật ngữ khác như “quản lý nhà nước”, “quản trị nhà nước” hay “quản trị”, “quản trị doanh nghiệp’… cho những vấn đề giống nhau. Điều này dẫn đến khó khăn trong việc hiểu và cụ thể hoá tư duy mới của Đảng về quản trị quốc gia trong thực tế.
Từ những phân tích ở trên, có thể nêu ra một số đề xuất, khuyến nghị sau:
Thứ nhất, như đã nêu, quản trị quốc gia tốt hiện là một yêu cầu xuất phát cả từ trong và ngoài nước, vì vậy, cần xem đây là một điều kiện không thể thiếu, có tính chất sống còn với sự phát triển của đất nước trong bối cảnh mới hiện nay.
Thứ hai, với tầm quan trọng như vậy, quản trị quốc gia tốt cần được đề cập và nhấn mạnh như là một trong những nội dung độc lập, có tính chất nền tảng, chi phối các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội khác, trong tất cả các văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ 13.
Thứ ba, cần sử dụng nhất quán thuật ngữ “quản trị quốc gia” trong các văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ 13 theo hướng đồng thời đề cập đến quản trị quốc gia tốt theo cách thức tổng quát (như là một nguyên tắc nền tảng cho tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị) và cụ thể (dưới hình thức các yêu cầu trong những lĩnh vực khác nhau). Cũng cần có những quy định toàn diện về quản trị quốc gia tốt, bao trùm mọi yêu cầu, không chỉ tập trung vào một số nội dung như trong dự thảo các văn kiện hiện hành.
PGS. TS Vũ Công Giao
Khoa Luật ĐHQG Hà NộiQuản trị quốc gia
[1] Daniel Kaufmann, Aart Kraay, Massimo Mastruzzi. The Worldwide Governance Indicators
Methodology and Analytical Issues, The World Bank Development Research Group Macroeconomics and Growth Team, September 2010, tai file:///Users/macbook/Downloads/SSRN-id1682130.pdf.
[2] World Bank (2006), Making PRSP Inclusive, tại http://siteresources.worldbank.org/DISABILITY/Resources/280658-1172608138489/MakingPRSPInclusive.pdf
[3] UNDP (1997), Governance & Sustainable
Human Development. A UNDP Policy Document, tại www.undp.org/.../undp/.../Democratic%20Governance/Di...
[4] ADB (2005), Governance: Sound Development Management Governance, tại https://www.adb.org/sites/default/files/institutional-document/32027/govpolicy.pdf
[5] Đối với quản trị quốc gia, có nghiên cứu lại chia thành quản trị ở cấp độ toàn quốc (national governance) và quản trị ở cấp địa phương (local governance).
[6] Quản trị doanh nghiệp đề cập đến cách thức tổ chức, quản lý, thực hiện các hoạt động trong nội bộ của một doanh nghiệp. Về cooperate governance, ví dụ, xem OECD (2004), Principles of Corporate Governance, tại http://www.oecd.org/corporate/ca/corporategovernanceprinciples/31557724.pdf
[7] Quản trị quốc tế đề cập đến hoạt động của các tổ chức quốc tế và các quốc gia trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, xung đột, tranh chấp lãnh thổ, chống khủng bố…Về international governance, ví dụ, xem trang web của ChathamHouse, tại https://www.chathamhouse.org/research/topics/international-law-and-governance/international-governance
[9] Corina Adriana Dumitrescu, THE CONCEPT OF GOOD GOVERNANCE IN
ARISTOTLE'S VIEW, tại http://cogito.ucdc.ro/nr_3_en/1%20-%20THE%20CONCEPT%20OF%20GOOD%20GOVERNANCE%20IN%20_eng_.pdf
[10] Xem World Bank (1992), Governance and Development, World Bank,Washington, DC; UNDP (1997) Governance for Sustainable Human Development. UNDP, New York; Commonwealth Foundation (1999), Citizens and Governance: Civil Society in the New Millennium. Commonwealth Foundation, London.
[11] Benz, A., Papadopoulos, Y. (eds) (2006), Governance and Democracy: Comparing National,
European and International Experiences. Routledge, London
[13] United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacific, What is Good Governance? Tại http://www.unescap.org/sites/default/files/good-governance.pdf
[14] Thủ tướng:"Thể chế tiến bộ sẽ mở đường cho đất nước phát triển", VietnamNet, 10/11/2020, https://vietnamnet.vn/
[15] Xem quyển 3 và 6 của tác phẩm Chính trị luận, bản tiếng Việt, tại http://icevn.org/vi/node/366
[16] Cũng xem Corina Adriana Dumitrescu, tài liệu đã dẫn.
[17] Xem Good Governance in Multiethnic Communities, Conditions, Instruments, Best Practices, Ways to Achieve and Measure Good Governance at the Local Level, A joint publication of the Ethnocultural Diversity Resource Center and the King Baudouin Foundation, 2007, at http://www.annalindhfoundation.org/sites/annalindh.org/files/documents/publication/pub_1660_good20governance_multiethnic_com_light.pdf, tr.13. Cũng xem Miriam Wyman, Thinking about Governance: A Draft Discussion Paper, prepared for The Commonwealth Foundation Citizens and Governance
Programme, tại http://www.education.gov.mt/youth/pdf_cyf/CYF_Themes_Concept_Papers/cg_governance_paper.pdf
[18] Trong một số tài liệu gọi là các nguyên tắc (principles) của quản trị tốt.
[19] United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacific, What is Good Governance? và Good Governance in Multiethnic Communities, Conditions, Instruments, Best Practices, Ways to Achieve and Measure Good Governance at the Local Level, các tài liệu đã dẫn.
[20] Xem Good Governance in Multiethnic Communities, Conditions, Instruments, Best Practices, Ways to Achieve and Measure Good Governance at the Local Level, tài liệu đã dẫn, tr.13.