Hội thảo khoa học góp ý hoàn thiện: “Báo cáo Nghiên cứu các tuyên bố bảo lưu của Việt Nam khi ký kết, phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng (UNCAC) và khả năng điều chỉnh nhằm nâng cao mức độ tuân thủ UNCAC của Việt Nam”
Ngày đăng:  26/04/2024 | 08:33 SA | 275
Ngày 25 tháng 4 năm 2024, tại Hà Nội, trong khuôn khổ Kế hoạch triển khai phi dự án hợp tác với Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam “Hỗ trợ nâng cao năng lực thực thi Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng tại Việt Nam giai đoạn 2022 - 2024” theo Quyết định số 10/QĐ-TTCP ngày 09/01/2023 của Tổng Thanh tra Chính phủ, Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra (Cl&KHTT) tổ chức Hội thảo khoa học góp ý hoàn thiện “Báo cáo Nghiên cứu các tuyên bố bảo lưu của Việt Nam khi ký kết, phê chuẩn UNCAC và khả năng điều chỉnh nhằm nâng cao mức độ tuân thủ UNCAC của Việt Nam” (Báo cáo).
...

Trình bày dự thảo Báo cáo tại Hội thảo, TS Nguyễn Huy Hoàng, Phó Viện trưởng Viện CL&KHTT cho biết, ngày 10/12/2003, Việt Nam đã ký Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Việt Nam bảo lưu 04 điều khoản khi ký Công ước, bao gồm Điều 20 Làm giàu bất hợp pháp, Điều 26 Trách nhiệm của pháp nhân, Điều 44 Dẫn độ và khoản 2 Điều 66 Giải quyết tranh chấp với lý do quy định tại Điều 20, 26, 44 và Khoản 2 Điều 66 chưa phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam chưa bảo đảm được các trình tự, thủ tục trong hoạt động tố tụng hình sự, dân sự, hành chính liên quan đến các điều khoản bảo lưu.

Tại hội thảo, các đại biểu đã nhấn mạnh những nỗ lực của Việt Nam nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi các quy định về phòng, chống tham nhũng trong thời gian qua. Cùng với đó, các đại biểu cũng đã góp ý để hoàn thiện báo cáo, tập trung vào về những vấn đề mà pháp luật Việt Nam cần phải điều chỉnh để nâng cao mức độ tuân thủ UNCAC, lộ trình để Việt Nam thực hiện rút bảo lưu, những vấn đề mà pháp luật Việt Nam cần điều chỉnh để có thể rút bảo lưu.

Bà Sabina Stein, Trợ lý Đại diện thường trú, Trưởng phòng Quản trị và tham gia, Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam khẳng định, kể từ khi phê chuẩn Công ước UNCAC, Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể trong công tác phòng, chống tham nhũng, nổi bật là Việt Nam đã thực hiện những cải cách pháp lý sâu rộng và tăng cường thực thi pháp luật về phòng, chống tham nhũng nhằm củng cố lòng tin của người dân, doanh nghiệp cũng như của các nhà đầu tư nước ngoài vào quản trị công. Bà Stein nêu bật một số cột mốc quan trọng trong quá trình này như việc ban hành Luật Phòng, chống tham nhũng; các Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; sửa đổi Bộ luật Hình sự và các luật liên quan để xử lý tội phạm tham nhũng hiệu quả hơn; thành lập Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam, ông Alan Doig - Chuyên gia quốc tế của UNDP cho biết, hiện nay, đã có gần 100 quốc gia nội luật hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp. Do vậy, ông Alan Doig cho rằng, Việt Nam không cần thiết phải ban hành luật cụ thể liên quan đến Điều 20 của Công ước UNCAC nhưng phải sửa đổi các luật và quy định hiện hành để phát hiện sự thay đổi tài sản không giải trình được và việc làm giàu bất hợp pháp.

Tại hội thảo, ông Đỗ Trung Kiên, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Thanh tra Chính phủ cho rằng đây làm một nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng, rất cần có sự đầu tư nghiên cứu toàn diện để có thể đề xuất cho Thanh tra Chính phủ và các cơ quan liên quan các giải pháp để thúc đẩy sự tuân thủ đầy đủ hơn của Việt Nam trong thực thi UNCAC. Đồng thời, ông Đỗ Trung Kiên cũng đề nghị bổ sung vào Báo cáo những nỗ lực của Việt Nam nhằm đưa ra các quy định phù hợp để xử lý hành vi làm giàu bất hợp pháp hoặc ít nhất là để xử lý tài sản do tham nhũng hay do phạm tội mà có. Theo ông Kiên, nhóm nghiên cứu có thể đầu tư thêm thời gian, tiếp cận nội dung nghiên cứu từ các góc nhìn khác nhau để đảm bảo sự toàn diện của nghiên cứu.

TS Nguyễn Linh Giang, Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nhấn mạnh, lý do đối với việc bảo lưu quy định tại Điều 20 về "làm giàu bất hợp pháp" và Điều 26 về "trách nhiệm hình sự của pháp nhân" được phân tích khá kỹ càng và sâu sắc. Tuy nhiên, nội dung phân tích lý do bảo lưu quy định về dẫn độ chưa thực sự rõ ràng .

PGS, TS Nguyễn Thị Thanh Hải, Phó Viện trưởng Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đánh giá, đây là báo cáo có có tính chuyên môn sâu, đòi hỏi có sự tiếp cận pháp luật so sánh so sánh và cần đánh giá trực tiếp một số  quy định của công ước quốc tế. Theo đó,  báo cáo đã có phần phân tích về tính tương thích, thực trạng thực thi và khả năng điều chỉnh pháp luật Việt Nam phù hợp với các điều khoản đang được bảo lưu. Trên cơ sở đó đưa ra được một số giải pháp một số khuyến nghị tương đối phù hợp. Để tiếp tục hoàn thiện về nội dung, báo cáo xem xét một số vấn đề như: Phần I.1 về giới thiệu nội dung công ước có thể cần bổ sung thêm thông tin về tình hình bảo lưu công ước của các quốc gia trên thế giới để người đọc có được thông tin khái quát về thực trạng bảo lưu công ước; xu hướng bảo lưu hoặc tuyên bố bỏ bảo lưu từng điều khoản của công ước NCAC của các quốc gia thành viên. Phần I.2 giới thiệu về nội dung các điều khoản mà Việt Nam bảo lưu: Điều 20 (Làm giàu bất hợp pháp), Điều 26 (Trách nhiệm của pháp nhân), Điều 44 (dẫn độ), Điều 66 (Giải quyết tranh chấp): cần phân tích thêm về nội dung cụ thể của từng điều khoản. Phần III về kinh nghiệm và bài học rút ra từ các quốc gia khác, cần có thêm phần giới thiệu khái quát về tình hình bảo lưu các điều khoản này trên thế giới và nêu lý do vì sao báo cáo lại  lựa chọn các quốc gia cụ thể này để phân tích.

Kết thúc hội thảo, TS. Cung Phi Hùng – Phó Viện trưởng Viện CL&KHTT phát biểu cảm ơn và xin tiếp thu toàn bộ các ý kiến đóng góp của các đại biểu tại cuộc hội thảo đối với dự thảo Báo cáo.

Tin: Đậu Hiền

Ảnh: Hữu Thắng